Thông tin sai lệch đang trở nên phổ biến trên không gian mạng và những lầm tưởng về học tập có thể cản trở quá trình tiếp thu kiến thức của các em.
Hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp những nội dung về giáo dục thoạt nhìn có ý định tốt nhưng phần lớn những gì được đề cập trong đó đều không đúng với sự thật. Một nghiên cứu về “Phạm vi tiếp cận và độ chính xác của thông tin về chứng tự kỷ trên TikTok” vào năm 2023 đã chỉ ra chỉ có 27% video TikTok phổ biến về căn bệnh là chính xác, con số 73% là những video tổng quát hoặc không chính xác.
Ông Richard Culatta - Giảng viên và giám đốc điều hành ASCD đã liệt kê các lầm tưởng phổ biến nhất và những ảnh hưởng trực tiếp đến các em học sinh. Dựa trên bài viết đó, Edutopia đã tổng hợp lại những lầm tưởng đó để người đọc có thể hiểu rõ hơn về cách học tập hiệu quả và cơ chế hoạt động của bộ não con người trong môi trường học tập như thế nào.
Nhiều học sinh đang mắc kẹt trong quan niệm sai lầm rằng có những người tư duy "não trái" và "não phải”, ông Culatta viết. Quan điểm này cho rằng những người tư duy bằng não bằng não trái sẽ thiên về logic và phân tích hơn, trong khi đó não phải sẽ đại diện cho khả năng sáng tạo và nghệ thuật hơn.
Sự thật trong quan niệm này là các vùng não cụ thể có những yếu tố chính đóng góp vào các chức năng tinh thần cụ thể và sự phân chia lao động này đôi khi nằm dọc theo các đường bán cầu não. Với quá trình xử lý ngôn ngữ thường diễn ra ở bán cầu não trái và quá trình xử lý không gian và thị giác ở bán cầu não phải.
Nhưng tư duy não trái và não hiện đang là một khái niệm bị đơn giản hóa quá mức. Theo báo cáo năm 2019 của Edutopia, hình ảnh chụp cộng hưởng từ não bộ đã chỉ rõ: “Não bộ không giống như 1 tập hợp các mô đun riêng biệt để xử lý thông tin, nó hoạt động giống như 1 mạng lưới tích hợp các chức năng để xử lý thông tin tốt hơn”.
Theo báo cáo năm 2013 của ông Robert H.Shmerling – Bác sĩ Y khoa và cố vấn cấp cao Harvard Health Publishing: “Các bác sĩ đã kiểm tra các lần quét não ở trạng thái nghỉ ngơi của hơn 1.000 người và đưa ra kết luận não của một cá nhân không hoạt động riêng lẻ theo theo từng bán cầu và hoạt động tiếp nhận thông tin sẽ đều giống nhau bất kể tính cách của người đó như nào”.
Nếu nhận thấy học sinh của bạn có những suy nghĩ tự phân chia bản thân thuộc nhóm não nào, bạn nên giải thích cho các em rằng sự sáng tạo hoặc tư duy logic là điều ai cũng có thể làm được và nhấn mạnh không có sự khác biệt về mặt sinh học hay cơ học giữa não trái và não phải. Điều quan trọng là các em hiểu được sự sáng tạo hoặc khả năng phân tích đến từ việc luyện tập chăm chỉ và mục tiêu rõ ràng.
Khi đến bậc THCS và THPT, nhiều học sinh tin rằng trí thông minh bẩm sinh sẽ quyết định chính khả năng thành công trong học tập của mình. Các bài kiểm tra chuẩn hóa về trí thông minh như SAT và chỉ số thông minh (IQ) đã khiến quan niệm này phổ biến hơn.
Trên thực tế, các bài kiểm tra này có quá khứ không ổn định và chúng không phải là thước đo nhất quán về khả năng trí tuệ của 1 người. Một trong những bài kiểm tra trí thông minh chung được áp dụng rộng rãi sớm nhất là thang điểm Binet Simon, tiền thân của bài kiểm tra IQ hiện đại, được phát triển đặc biệt để xác định xem một học sinh có khuyết tật trí tuệ và nên bị loại khỏi nhóm học sinh chung của trường hay không.
Trong khi đó, kết quả kiểm tra IQ của một người có thể thay đổi nhanh chóng theo thời gian. Theo nghiên cứu được đăng tải trên trang Nature vào năm 2011, các nhà khoa học đã kiểm tra nhiều lần IQ của nhóm thanh niên. Kết quả cho thấy điểm số IQ của họ có mức dao động tới 20 điểm trong suốt 4 năm. Ông Steven Piantadosi - Nhà khoa học về nhận thức, nói với tạp chí Discover: "Các bài kiểm tra IQ thường bị ảnh hưởng những thứ như động lực và rèn luyện".
Theo cô Kimberly Hellerich – Giáo viên tiếng Anh, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thực hiện các bài kiểm tra IQ một cách định kì để các em thấy được sự tiến bộ của bản thân. Điều này cũng hạn chế được tình trạng các em làm bài kiểm tra IQ duy nhất một lần và nhận định rằng trí thông minh của mình chỉ dừng lại ở đó.
Theo nghiên cứu năm 2016 được đăng tải trên Sage Journals đã báo cáo rằng trong các lớp học có sử dụng công nghệ học sinh dành trọn một phần ba thời gian học tập cho các công việc không liên quan đến học thuật như chơi trò chơi trên trình duyệt hoặc mua sắm trực tuyến với niềm tin mãnh liệt rằng họ có thể xử lý bài học cùng lúc.
Ông Culatta cho rằng: "Bộ não con người không thể tập trung vào nhiều thứ cùng một lúc. Điều thực sự xảy ra là não của chúng ta nhanh chóng chuyển từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác, nhưng vẫn chỉ tập trung vào một trong số chúng tại một thời điểm nhất định, điều này ảnh hưởng đến hiệu suất kém ở mỗi nhiệm vụ mà chúng ta thực hiện.
Điều này đặc biệt đúng khi các nhiệm vụ cần thực hiện đang cạnh tranh trong một mạch não xử lý thông tin dựa trên cùng một mạch não. Ví dụ điển hình là: "Nghe lời bài hát của một ngôn ngữ quen thuộc có thể dựa vào cùng một nguồn lực nhận thức như học từ vựng, do đó việc phát nhạc có giai điệu trữ tình trong khi đọc hoặc viết về các chủ đề khó thường dẫn đến quá tải khả năng xử lý và dẫn đến hiệu ứng nhiễu". – Theo báo cáo nghiên cứu về Hiệu suất nhận thức vào năm 2021 trên ScienceDirect.
Để giúp phá vỡ thói quen làm nhiều việc cùng lúc, ông Catlin Tucker – Cố vấn giáo dục nói: " Tôi nghĩ giáo viên nên giải thích rõ lý do cho mọi điều xoanh quanh các em. Phần lớn những đứa trẻ đều không hiểu biết khoa học về cách thức vận hành của bộ não, vì vậy nhiều em thực sự tin rằng chúng có thể làm nhiều việc cùng lúc. Chính bởi chưa có đủ hiểu biết nên khi giáo viên đề cập đến việc hạn chế sử dụng điện thoại trong lớp học, các em sẽ không biết rằng đó là những điều giúp các em cải thiện khả năng tập trung và nâng cao thành tích học tập”.
Để chứng minh cho việc học sinh không thể làm nhiều việc cùng một lúc, cô Tucker đã đề xuất một phương án “Các em có thể đeo tai nghe trong lớp một ngày nhưng sẽ không được sử dụng vào ngày hôm sau. Kết thúc 2 buổi học sẽ có một bài kiểm tra nhỏ đánh giá”.
Khi học sinh thấy sự khác biệt về điểm số của mình thì lúc đó những phản ứng tiêu cực của các em từ việc thiết lập các quy định hạn chế công nghệ sẽ không còn quá gay gắt nữa. – Cô Tucker cho biết thêm.
Đây là một trong những quan điểm về giáo dục tồn tại lâu đời nhất, “chiếm trọn” trái tim và khối óc của cả giáo viên lẫn học sinh. Quan điểm về phong cách học tập cho rằng mỗi học sinh đều có khuynh hướng sinh học đối với một hình thức học tập cụ thể. Ví dụ như sở thích bẩm sinh đối với việc học bằng thị giác, vận động hoặc lời nói.
Đây là một ý tưởng đơn giản nhưng hấp dẫn. Trên thực tế, nhiều học sinh chưa bao giờ nghĩ rằng mình có một phong cách học tập riêng cho đến khi các em tự tìm hiểu hoặc gián tiếp biết tới qua người lớn để rồi bắt đầu tin vào điều đó.
Hình ảnh minh họa các "phong cách học tập". Ảnh: Táo Giáo dục tưởng 4: “Phong cách học tập”
Nghiên cứu của Nature vào năm 2023 đã kết luận rằng lầm tưởng này cũng định hình cách người lớn nhận thức về tiềm năng của học sinh. Trong nghiên cứu, giáo viên và phụ huynh đánh giá "người học bằng thị giác" là thông minh hơn và "người học thực hành" là năng động hơn.
Các nhà khoa học cũng phát hiện rằng ngay cả các trường cao đẳng sư phạm cũng có thể duy trì những quan niệm sai lầm này, dựa vào những phát biểu sai lầm thông thường như "Các nhà hóa học và kỹ sư thường là những người học bằng vận động". Những quan niệm sai lầm như vậy có thể khiến giáo viên xếp loại học sinh dựa trên khả năng của chúng cũng như hạn chế các tiềm năng khác của các em
Ông Richard Culatta - Giảng viên và giám đốc điều hành ASCD đánh giá: "Đúng là chúng ta có sở thích cá nhân đối với các hoạt động học tập nhưng não của chúng ta không được kết nối khác nhau để học tốt hơn từ phong cách này hay phong cách khác".
Bài nghiên cứu “Phong cách học tập: Khái niệm và Bằng chứng” được đăng tải trên Sage Journals. (Ảnh chụp màn hình)
Theo nghiên cứu “Phong cách học tập: Khái niệm và Bằng chứng” được công bố vào năm 2009 của nhóm học giả đến từ Mỹ đã chỉ ra hiện nay chưa có bằng chứng cụ thể nào cho thấy học sinh sẽ học hiệu quả hơn khi được giảng dạy theo phong cách học bẩm sinh của các em.
Mặt khác, “Nghiên cứu cho thấy học sinh sẽ học, ghi nhớ và áp dụng thông tin mới tốt hơn nếu các em xử lý thông tin đó theo nhiều cách khác nhau", Ông Jonathan G. Tullis - Giáo sư tâm lý giáo dục tại đại học Arizona cho biết.
Ông Jonathan nói thêm: “Cách học áp dụng nhiều hình thức tiếp cận thông tin khác nhau sẽ tạo ra những ký ức chi tiết và phức tạp, giúp tăng cường khả năng ghi nhớ và khái quát hóa kiến thức đó trong thời gian dài. Ví dụ như khi học về tế bào, tất cả học sinh nên xem sơ đồ, đọc về chúng, vẽ chúng và thậm chí xây dựng mô hình bằng tay - thay vì chỉ tiếp cận thông tin theo "phong cách" ưa thích của học sinh”.
Cho dù đó là toán, tiếng Anh hay nghệ thuật, nếu một học sinh đang gặp khó khăn trong một môn học cụ thể, lầm tưởng về việc tài năng đánh bại sự chăm chỉ có thể khiến các em bỏ cuộc và nói rằng, "Tôi không có năng khiếu về môn đó".
Thật không may, lầm tưởng này thường được duy trì bởi người lớn và ảnh hưởng đến các em (đôi khi là vô tình). Trong một hiện tượng được gọi là thiên kiến tự nhiên, con người có xu hướng đánh giá người có năng khiếu bẩm sinh ở một lĩnh vực nào đó cao hơn người đã nỗ lực rất nhiều, ngay cả khi thành tích chung của họ là tương đương.
Bà Angela L. Duckworth sinh năm 1970 - Giáo sư, tiến sĩ Tâm lý học Rosa Lee và Egbert Chang tại Đại học Pennsylvania. (Ảnh: Internet)
Sự thật là theo nhiều nghiên cứu đã chứng minh chăm chỉ là yếu tố quan trọng hơn tài năng bẩm sinh trong phần lớn các thành tích về học tập. Nghiên cứu mang bước ngoặt do 2 nhà tâm lý học Brian Galla và Angela Duckworth dẫn đầu vào năm 2019 đã phát hiện rằng điểm trung bình ở trường trung học là yếu tố dự đoán tốt hơn về việc hoàn thành đại học đúng hạn so với điểm thi xét tuyển SAT.
“Không giống như điểm kiểm tra chuẩn hóa, điểm số là chỉ số rất tốt dùng để phản ánh khả năng tự điều chỉnh của học sinh cũng như khả năng bám sát mọi thứ, khả năng điều chỉnh các xung động, khả năng trì hoãn sự thỏa mãn và làm việc chăm chỉ thay vì lười biếng”, bà Duckworth chia sẻ với Edutopia vào năm 2020.
Bà Duckworth khẳng định: “Thông qua sự tiến bộ rõ rệt trong điểm số hàng ngày đã chứng minh rằng sự kiên trì mới thực sự quyết định thành công lâu dài trong học tập và nghề nghiệp”.
Hãy nhắc nhở với những em đang gặp khó khăn trong học tập rằng sự chăm chỉ mới là điều quan trọng nhất, chứ thành công không phải do tài năng bẩm sinh quyết định.
“Các chuyên gia tầm cỡ thế giới đều có khởi đầu giống như mọi người khác, họ là những người nghiệp dư ngại ngùng và vụng về”, bà Duckworth cho biết. “Họ đạt được những thành tựu xuất chúng thông qua hàng nghìn giờ luyện tập có chủ đích”.
Để nhấn mạnh quan điểm này, các giáo viên chia sẻ với Edutopia rằng hãy khen ngợi học sinh vì sự tiến bộ của các em thay vì điểm số các em và cho các em thấy được những sai lầm, khó khăn của các nhà văn, nhà khoa học và nghệ sĩ cũng như cách họ đối mặt với những thất bại như nào.
Lầm tưởng 6: Học là “lấp đầy não”
Trong báo cáo của mình, ông Richard Culatta - Giảng viên và giám đốc điều hành ASCD chỉ ra rằng ngày nay có nhiều ẩn dụ mang tính giáo dục đề cập đến việc “lấp đầy” não bằng thông tin, như thể não bắt đầu từ một cái xô rỗng có thể được lấp đầy đến vành hoặc như ổ cứng, tủ hồ sơ nơi mà bạn lưu trữ và truy cập thuận tiện.
(Ảnh minh họa lầm tưởng học là lấp đầy não)
Những hình ảnh ẩn dụ đó đã khiến mọi người lầm tưởng cách não bộ thực sự hoạt động. “Thay vì đơn giản là thả các bit thông tin vào một thùng rỗng, kiến thức của chúng ta phát triển bằng cách kết nối với những thứ chúng ta đã biết”, ông Culatta nói.
Theo ông Anthony J. Greene – Chuyên gia thần kinh học viết cho Scientific American: “Trong quá trình tích lũy kiến thức và kết nối các sự kiện trong trí nhớ, chúng ta sẽ học được cách mô hình hóa các tình huống phức tạp và đưa ra suy luận về các mối quan hệ mới. Chính những kết nối này cho phép chúng ta hiểu được nguyên nhân và kết quả, học hỏi từ những sai lầm của mình và dự đoán tương lai”.
Để giúp xóa tan lầm tưởng này, hãy xem xét lại ngôn ngữ bạn đang sử dụng để mô tả việc tiếp thu kiến thức của các em. Thay vì một hệ thống lưu trữ, một ẩn dụ tốt hơn là so sánh bộ não với một dải khóa Velcro. Những kiến thức mới sẽ được bám chặt vào nếu chúng có đủ những liên kết đã được rèn luyện theo thời gian để tạo thành kết nối mới, ông Culatta gợi ý.
Hãy phát triển phương pháp giảng dạy của bạn một cách khoa học hơn thông qua việc kết nối lại những bài học cũ và phát triển lên những vấn đề có trong bài học mới, bằng cách đơn giản như lập sơ đồ tư duy, biểu đồ Venn hoặc tạo cặp học sinh trao đổi qua lại với nhau
Lầm tưởng 7: Học càng gần ngày thi càng tốt
Chiến lược học tập này đòi hỏi ít nỗ lực hơn nhiều so với việc học một chút mỗi ngày và đôi khi có thể mang lại hiệu quả bất ngờ nên các em áp dụng phương pháp học này thường xuyên là điều dễ hiểu.
Ông Daniel T. Willingham - Giáo sư, tiến sĩ tâm lý học tại Đại học Virginia. (Ảnh: Katie Martin)
Chỉ cần một đêm học tập căng thẳng cũng đủ để vượt qua một bài kiểm tra nhưng lạm dụng phương pháp này khiến các em mau quên kiến thức nhanh hơn để rồi học sinh sẽ mất đi nền tảng cần thiết để thành công trong tương lai.
Theo ông Daniel Willingham - Giáo sư tâm lý học, việc chuyển thông tin sang bộ nhớ dài hạn đòi hỏi học sinh phải tham gia vào quá trình “thực hành phân tán”, các em sẽ phải tiếp thu kiến thức từng chút một trong khoảng thời gian dài.
Trang bìa nghiên cứu Thực hành ngắt quãng thúc đẩy quá trình học. (Ảnh chụp màn hình)
Đáng chú ý, trong nghiên cứu về “Thực hành ngắt quãng” đã đề cập đến việc học sinh sẽ ghi nhớ kiến thức tốt hơn khi liên tục lặp lại những thông tin đã nhớ, những công cụ hỗ trợ như thẻ ghi nhớ và bài kiểm tra tự đánh giá sẽ giúp các em tự thực hiện quá trình này.
Bà Angela L. Duckworth - Giáo sư, tiến sĩ tâm lý học nói nhận định rằng, để giúp học sinh phá vỡ thói quen nhồi nhét, giáo viên cần hướng dẫn các em lên lịch trình học cụ thể trước khi kỳ thi diễn ra.
Tại trường THCS King ở Portland, cô Catherine Paul - Giáo viên lớp 8 đã yêu cầu học sinh nêu tên từng bài tập đang thực hiện trong lớp học của mình. Trong quá trình thảo luận cả lớp, các em sẽ cùng nhau quyết định các bài tập cần hoàn thành theo mức độ ưu tiên và độ khó của bài tập để các em có thể hỗ trợ lẫn nhau cùng lên lịch trình hoàn thành các bài tập đó.
Bảng so sánh mức độ hiệu quả giữa việc học dồn và học ngắt quãng, kết quả được thể hiện bằng điểm số Cột màu xanh thể hiện học ngắt quãng và cột màu cam thể hiện học dồn. (Bảng biểu trong nghiên cứu)
Theo nghiên cứu vào năm 2017, những học sinh nhận được lời khuyên, nhắc nhủ để chuẩn bị cho bài kiểm tra sắp tới hoặc được chỉ dẫn cẩn thận những phần nội dung quan trọng cho việc ôn tập lại thường có điểm cao hơn so với những bạn cùng lớp không nhận được lời khuyên này.