Cái khăn gắn bó với người Việt, vừa có giá trị thực tiễn vừa mang ý nghĩa văn hóa. Khăn dùng để che nắng, giữ ấm và làm đẹp.
Ngoài ra, khăn còn là cách để con người gửi gắm tâm tư, tình cảm. Hơn thế, khăn cũng đã trở thành biểu tượng vùng miền, thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa độc đáo được thể hiện sinh động qua những bài ca dao trữ tình tha thiết.
Trong ca dao, cái khăn đã trở thành một phần không thể thiếu trong hình ảnh người phụ nữ Việt, gợi lên nét đẹp truyền thống và sự tinh tế. Nó chẳng những là vật bất li thân của người con gái xưa, mà đó còn là thứ trang sức tôn vinh vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng:
“Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”.
Có thể câu ca dao đang đề cập đến hình ảnh khăn mỏ quạ trên đầu của những cô gái Bắc Bộ. Khăn chít đầu của phụ nữ thời trước, thường có màu đen, gấp chéo thành góc nhọn như cái mỏ quạ ở trước trán. Độ linh hoạt của nó chính là ở chỗ chít sao cho vừa, cho hợp để tạo cho khuôn mặt như búp sen như nhà thơ Hoàng Cầm từng viết: “Ai về Bên kia sông Đuống/ Có nhớ từng gương mặt búp sen/ Những cô hảng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng”.
Bài ca dao trên đã khéo léo miêu tả vẻ đẹp của người con gái, trong đó cái khăn đóng vai trò như một điểm nhấn, làm nổi bật sự dịu dàng, mềm mại. Hình ảnh cái khăn đội đầu được so sánh với hoa sen vốn là biểu tượng của sự thuần khiết và thanh cao.
Khăn mỏ quạ, với màu đen tuyền và nếp gấp khéo léo, không chỉ giúp che chắn, mà còn làm nổi bật khuôn mặt thanh tú của người con gái:
“Vấn khăn mỏ quạ làm duyên,
Chị hai duyên dáng bên thuyền đợi ai”.
Hành động “vấn khăn mỏ quạ làm duyên” chẳng những nhấn mạnh sự khéo léo của người phụ nữ khi vấn khăn, vừa che đi khuyết điểm, vừa tạo nên nét duyên dáng riêng. Thậm chí, ngay cả những người không có nhan sắc nổi bật cũng có thể trở nên “ra dáng người” nhờ cách chít khăn:
“Người nào mà xấu như ma,
Chít khăn mỏ quạ cũng ra dáng người”.
Cái khăn không chỉ là vật dụng, mà còn là một “phép màu” giúp người con gái trở nên đẹp hơn, duyên dáng hơn trong mắt người khác.
Ngoài việc làm đẹp, cái khăn còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ trong cách lựa chọn và sử dụng chúng:
Một yêu khăn nhiễu Tam Giang,
Khen ai khéo nhuộm cho nàng, nàng ơi!
Câu ca dao đã ca ngợi sự tỉ mỉ trong việc chọn màu sắc, chất liệu. Với chất liệu mềm mại và màu sắc rực rỡ, khăn nhiễu Tam Giang không chỉ là vật trang trí, mà còn thể hiện thị hiếu thẩm mĩ và sự tinh tế của người con gái.
Trong tình yêu, cái khăn thường được sử dụng như một vật trao duyên, tín vật để gắn kết tình cảm giữa hai người. Hình ảnh đó xuất hiện trong ca dao với vai trò như một cầu nối giúp người con trai và người con gái gửi gắm tình cảm, lời nhắn nhủ đến nhau.
“Em về anh mượn khăn tay,
Gói câu tình nghĩa, lâu ngày sợ quên”.
Ở câu ca dao trên, người con trai mượn chiếc khăn tay của người con gái, không phải vì nhu cầu sử dụng, mà là để giữ lại một phần kỉ niệm của người thương. Cái khăn trở thành vật gói ghém tình cảm như thể sợ rằng thời gian sẽ làm phai nhạt những điều thiêng liêng ấy.
Trong những cuộc chia li, cái khăn cũng đóng vai trò như một vật kỉ niệm để người ở lại nhớ về người ra đi. Nó chứa đựng trong đó nỗi nhớ nhung, sự mong mỏi và hi vọng.
“Chiếc khăn cô đội trên đầu,
Gió xuân đưa đẩy rơi vào tay tôi.
Bâng khuâng tôi chẳng muốn rời,
Trao cô thì tiếc, giữ thời không yên”.
Câu ca dao miêu tả tình huống đầy ý nhị, khi cái khăn vô tình rơi vào tay chàng trai, tạo nên một mối liên kết tình cảm. Hành động “trao khăn” ở đây không chỉ đơn thuần là trả lại vật dụng, mà còn là một cách để trao gửi tình cảm và tạo nên sự gắn kết giữa hai con người.
Trong ca dao, cái khăn còn là biểu tượng của nỗi nhớ nhung da diết. Nó không chỉ là vật vô tri vô giác mà dường như mang trong mình cảm xúc của người con gái, trở thành nhân chứng cho tình yêu và sự chờ đợi.
Trong câu ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt”.
Hình ảnh cái khăn ở đây được nhân hóa như thể nó cũng mang cảm xúc và vì vậy mà nó cũng biết “thương nhớ”. Cái khăn rơi xuống đất, vắt lên vai hay chùi nước mắt đều là những hành động ẩn dụ nhằm thể hiện tâm trạng của người con gái. Qua đó, ta cảm nhận được nỗi nhớ nhung day dứt mà nhân vật trữ tình đang trải qua.
Không chỉ vậy, cái khăn còn là người bạn đồng hành, chia sẻ những cảm xúc buồn vui, thương nhớ của người con gái. Khi người con gái buồn, chiếc khăn là nơi để lau nước mắt. Khi người con gái nhớ nhung, chiếc khăn là vật để họ ôm ấp, gửi gắm tâm tư.
Trong văn hóa dân gian, cái khăn còn được sử dụng như một “tín hiệu khu biệt” giúp nhận diện người thương giữa đám đông. Hình ảnh này thường xuất hiện trong những câu ca dao thể hiện nỗi nhớ nhung của người con trai đối với người con gái. Chẳng hạn:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người đẫy gấm, khăn điều vắt vai”.
Khăn điều, một loại khăn màu đỏ đã trở thành dấu hiệu đặc trưng để người con trai nhận ra người con gái mình thương yêu. Hình ảnh “khăn điều vắt vai” không chỉ gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của người con gái, mà còn thể hiện sự chung thủy, gắn bó trong tình yêu.
Bên cạnh đó, trong đời sống dân gian người Việt, cái khăn không chỉ là vật dụng thông thường, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt trong việc chia sẻ nỗi đau và tâm tư. Nó xuất hiện trong nhiều câu ca dao như một biểu tượng của tình cảm và những nỗi niềm thầm kín mà nhân vật trữ tình gửi gắm. Khi đó, khăn trở thành người bạn đồng hành và chứng nhân cho những cảm xúc buồn vui, thương nhớ và cả những nỗi đau khó nói thành lời.
Hình ảnh cái khăn thường gắn liền với những cuộc chia li. Người bình dân xưa đã gửi gắm tình cảm và cả nỗi nhớ vào chiếc khăn như một cách để giữ lại hơi ấm và kỉ niệm của người thương.
“Áo xông hương của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi nhời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”.
Câu ca dao miêu tả hình ảnh người con gái gửi khăn và những lời nhắn nhủ đến người yêu nơi phương xa từ đó trở thành cầu nối giữa hai tâm hồn, chứa đựng nỗi nhớ nhung và tình cảm sâu sắc. Nó mang theo hơi ấm, mùi hương và cả những lời dặn dò như thể người con gái đang cố gắng giữ lấy một phần hình bóng của người mình thương yêu.
Trong những lúc xa cách, cái khăn còn là nơi để người ở lại gửi gắm nỗi nhớ và sự chờ đợi:
“Anh giơ khăn trắng em cầm
Mai sau về trển, gối đầu nằm lấy hơi”.
Khăn trắng mà người con gái cầm không chỉ là một kỉ vật, mà còn là lời hứa hẹn và là niềm hi vọng về ngày đoàn tụ. Nó như một người bạn tri kỉ, luôn hiện diện bên cạnh để xoa dịu nỗi đau và sự cô đơn trong những ngày xa cách.
Cái khăn cũng là nơi để người ta gửi gắm nỗi buồn và những tâm tư khó giãi bày:
“Chiếc khăn cô đội trên đầu
Gió xuân đưa đẩy rơi vào tay tôi
Bâng khuâng tôi chẳng muốn rời
Trao cô thì tiếc giữ thời không yên”.
Câu ca dao miêu tả hình ảnh đầy ý nhị khi chiếc khăn vô tình rơi vào tay chàng trai. Hành động “trao khăn” ở đây không chỉ là trả lại vật dụng, mà còn là cách để gửi gắm tình cảm thầm kín, cảm xúc bối rối, khó nói thành lời, vừa là sự lưu luyến, vừa là nỗi tiếc nuối khi phải rời xa người thương.
Hơn nữa, cái khăn còn là dấu hiệu nhận diện người thương giúp người ta nhớ về hình bóng của nhau:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người đẫy gấm, khăn điều vắt vai”.
Hình ảnh “khăn điều vắt vai” gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của người con gái, đồng thời cũng là dấu hiệu để người con trai nhận ra người mình thương. Trong những hoàn cảnh khác, cái khăn còn gắn bó với hình ảnh người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó:
“Chàng đi trâu để em chăn
Để nón em đội để khăn em cầm”.
Câu ca dao gợi lên hình ảnh người con gái vừa dịu dàng vừa tháo vát, luôn sẵn sàng thay chàng trai gánh vác công việc. Thế nên, nó còn là biểu tượng của sự hi sinh, tình yêu thương và sự sẻ chia trong mối quan hệ đôi lứa.
Cái khăn trong văn hóa dân gian Việt Nam không chỉ là vật dụng thường ngày, mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Qua ca dao, hình ảnh cái khăn được nhân hóa, trở thành nơi gửi gắm nỗi nhớ, nỗi đau và tâm tư thầm kín. Đồng thời, nó là tín vật tình yêu, gắn kết tình cảm đôi lứa và chứng nhân cho sự thủy chung. Vượt qua giá trị vật chất, cái khăn trở thành biểu tượng tinh thần, phản ánh tình yêu, nỗi nhớ và giá trị nhân văn, góp phần làm giàu thêm tâm hồn dân tộc Việt.
Việc sinh con gái hay con trai ngày xưa, mỗi nhà cũng muốn “thông báo” cho khách biết bằng những biểu tượng. Nếu gia đình sinh được con trai thì họ sẽ treo cây cung. Trong sách “Điển cố văn học” (Đinh Gia Khánh (chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, 2008) viết: “Theo Kinh lễ, người xưa đẻ con trai thì treo cung ở bên trái cửa ra vào, nói sinh con trai: “Gia tư thời cũng bậc trung/ Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy”; và nếu như gia đình sinh con gái thì họ sẽ treo khăn: “Theo Kinh lễ, người xưa đẻ con gái thì treo cái khăn ở bên phải cửa ra vào, nói xin con gái”:
Vết kim tiên để thương thay
Báo điềm mộng nguyệt đến ngày treo khăn.
(Quan Âm Thị Kính)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang trong “Từ điển văn học quốc âm” (NXB Văn hóa - Thông tin, 2000) chú rõ hơn “Lễ kí: Tử sinh, nam tử thiết hồ ư môn tả, nữ tử thiết chuế ư môn hữu” (Con đẻ ra, con trai thì treo cung bên trái cửa ra vào; con gái thì treo khăn ở bên phải). Như vậy có thể nói ngay từ khi được sinh ra, bé gái đã gắn liền với cái khăn.