Từ những nội dung cần bồi dưỡng cho giáo viên, TS Nguyễn Thị Thanh khuyến nghị, nhà trường cần lựa chọn phương thức tổ chức bồi dưỡng đa dạng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Theo đó, có thể tổ chức cho cá nhân giáo viên tự bồi dưỡng; tổ chức tập huấn cho giáo viên trong trường; hoặc tổ chức các cuộc thi gắn với chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên. Ngoài ra, có thể tổ chức cho giáo viên đi thăm quan, học tập và yêu cầu giáo viên tham gia tập huấn bên ngoài trường.
Để xây dựng được đội ngũ giáo viên có chất lượng, TS Nguyễn Thị Thanh cho rằng, việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ là điều tất yếu đối với tất cả các cơ sở giáo dục phổ thông. Căn cứ vào chuẩn nghề nghiệp, hầu hết giáo viên đều đạt mức độ cần thiết. Những tiêu chí được quan tâm bồi dưỡng thường xuyên thì đã có nhiều giáo viên đạt mức tốt. Những tiêu chí chưa được bồi dưỡng thường xuyên thì phần lớn giáo viên tự đánh giá ở mức đạt.
Qua đó cho thấy, còn nhiều nội dung phải quan tâm bồi dưỡng cho giáo viên. Muốn việc bồi dưỡng đạt hiệu quả thì hiệu trưởng cần linh hoạt trong việc lựa chọn phương thức tổ chức bồi dưỡng. Nếu có thể, kết hợp các phương thức bồi dưỡng khác nhau để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế của phương thức này.
Ở góc nhìn khác, PGS.TS Lê Đình Sơn – Trường ĐH Sư phạm (ĐH Đà Nẵng) cho biết, giáo viên có thể được đào tạo bằng cách kết hợp giữa đào tạo của trường đại học và làm việc trong trường học dưới sự hướng dẫn của chuyên gia có kinh nghiệm. Thời gian này được xem là một giai đoạn đào tạo.
Tại Hoa kỳ, các ứng viên ghi danh vào các môn khoa học ở trường đại học. Phần bổ sung các môn khoa học nghiệp vụ sư phạm sẽ được đào tạo ở cộng đồng, nơi họ sẽ làm việc. Điều này cho phép họ áp dụng hiệu quả lý thuyết giảng dạy vào thực tiễn. Đào tạo giáo viên dựa vào cộng đồng đáp ứng cho những thách thức về các vấn đề giới tính, chủng tộc và đa dạng văn hóa. Hiện nay, những chương trình đào tạo như vậy đang trở nên phổ biến trong bối cảnh gia tăng quyền tự chủ của các trường phổ thông.
Ở Vương quốc Anh, mô hình hợp tác giữa các trường đại học và trường phổ thông trong cung cấp dịch vụ đào tạo giáo viên do Nhà nước hỗ trợ được ủng hộ tích cực. Còn tại Phần Lan, có hai cách chủ yếu đã trở thành giáo viên. Thứ nhất, đa số sinh viên lấy bằng thạc sĩ ở một chuyên ngành chính và một hoặc hai ngành học phụ. Sau đó, sinh viên nộp hồ sơ vào các khoa sư phạm để học thêm một năm về nghiệp vụ sư phạm, chủ yếu tập trung vào các chiến lược, phương pháp giảng dạy bộ môn.
Thứ hai là đăng ký học thẳng chương trình đào tạo giáo viên. Sau hai năm học kiến thức môn học, sinh viên bắt đầu học nghiệp vụ sư phạm tại các khoa sư phạm. Giáo viên được đào tạo kỹ năng cả về nội dung giảng dạy lẫn nghiệp vụ sư phạm cả kiến thức và kỹ năng, về lý thuyết và thực hành. Thời gian đào tạo là 3 năm đại học và 2 năm cao học.
Trên cơ sở khảo cứu kinh nghiệm thế giới, thực trạng mô hình và quy mô đào tạo giáo viên ở nước ta, PGS.TS Lê Đình Sơn đề xuất một số nội dung đổi mới mô hình đào tạo như: Quy hoạch đội ngũ giáo viên và mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên; cần thống nhất khung chương trình đào tạo giáo viên trong toàn hệ thống; chú trọng năng lực nghiên cứu của người học trong mô hình đào tạo giáo viên; cần có chính sách khuyến khích đội ngũ giáo viên nâng cao trình độ đào tạo.
Theo TS Nguyễn Thị Thanh, cơ sở giáo dục đại học có chức năng bồi dưỡng giáo viên cũng cần nghiên cứu xây dựng các khóa bồi dưỡng thiết thực với tình hình thực tế, với nhiệm vụ năm học để hỗ trợ các trường nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên.