Giải pháp kỹ thuật gồm: Nhóm giải pháp công trình cứng và nhóm giải pháp mềm. Trong đó, nhóm giải pháp công trình cứng bao gồm: Kè biển, kè mỏ hàn, đê ngầm phá sóng, kè mỏ hàn kết hợp đê ngầm phá sóng. Nhóm giải pháp mềm bao gồm: Nuôi bãi, trồng rừng ngập mặn, và đụn cát. Trong 1 số trường hợp có thể kết hợp cả 2 nhóm giải pháp.
Hiện các nhóm giải pháp đã được thực hiện và đang tiếp tục triển khai trên các khu vực như bờ sông tại Cà Mau, kè bảo vệ bờ tại Vĩnh Hảo – Sóc Trăng; cấu kiện CT1 giảm sóng ở Gò Công –Tiền giang; kè bảo vệ bờ tại Gành Hào – Bạc Liêu,…
Theo GS.TS Trần Đình Hoà, trong giai đoạn vừa qua và trong ngắn hạn cần có các giải pháp – công nghệ mới trong phòng chống sạt lở. Tuy nhiên, về dài hạn cần có các nghiên cứu mang tính tổng thể nhằm chủ động dự báo, cảnh báo, thích ứng với vấn đề sạt lở trên hệ thống sông, kênh (bảo vệ các khu vực quan trọng) và chủ động bảo vệ các khu vực bờ biển trọng yếu, chủ động quản lý, kiểm soát được rủi ro thiên tai.
Cụ thể như: Rà soát toàn bộ không gian quy hoạch đô thị, nông thôn có liên quan đến xói lở sông, kênh và bờ biển, theo hướng:Khu vực ven sông lớn, trục chính, từng bước bố trí lại dân cư, có đất cho bãi sông, đường, đê (cho nâng cấp sau này).Quản lý chặt chẽ đất đai, hành lang ven sông, kênh rạch. Chống xâm lấn kênh rạch, đặc biệt nơi có nguy cơ sạt lở, các tuyến tiêu thoát quan trọng.
Bên cạnh đó, quản lý các khu vùng đệm đới bờ biển (rừng, hạ tầng); tăng cường giám sát, cảnh báo, di dời dân cư, cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp cung cấp cát xây dựng và san lấp, các loại vật liệu thay thế.
Ngoài ra, cần tăng cường liên kết vùng trong phòng chống sạt lở. Các quốc gia phải hợp tác chặt chẽ với nhau trong quản lý, khai thác nguồn nước sông Mekong.
Tại Hội thảo, PGS.TS. Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịchViện Hàn lâm KH&CM Việt Nam cho rằng, cần tiếp cận tổng thể, toàn diện với chiến lược dài hạn trong nghiên cứu thiên tai, tránh dàn trải. Việc tổ chức thực hiện các nghiên cứu thiên tai cần theo cách tiếp cận từ khái quát đến chi tiết, từ quy mô quốc gia, đến vùng miền, cấp huyện, khu dân cư, công trình với các cách tiếp cận, hệ phương pháp và mục tiêu khác nhau tương ứng với từng quy mô. Tăng cường vai trò phối hợp của các bộ, ngành: KH&CN, TN&MT, NN&PTNT, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam; sự phối hợp giữa các chương trình khoa học, công nghệ trọng điểm và sự phối hợp liên ngành và đa ngành của các chuyên môn khoa học trong nghiên cứu thiên tai.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang cũng đồng tình với ý kiến của các nhà khoa học "tai biến địa chất ngày càng trầm trọng và phức tạp, ảnh hưởng lớn đến kinh tế, an sinh xã hội". Vì vậy cần có các nghiên cứu chuyên sâu hơn, toàn diện, bao quát, liên tục và liên ngành; bố trí kinh phí dự phòng cho các nhiệm vụ đột xuất.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang cũng mong muốn các bộ, ngành, ban quản lý chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu chủ động đặt hàng, các nhà khoa học đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu nhằm giảm thiểu thiệt hại do các tai biến thiên nhiên tại vùng ĐBSCL và Tây Nguyên cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam.