Sau khi hứng chịu những đòn không kích dữ dội của Mỹ nhằm vào các nhà máy quân sự và các đầu mối đường sắt quan trọng, không quân Đức đã nhanh chóng đáp trả.
Ngày 20/6/1944, một máy bay He-111 của Đức bí mật bám đuôi các máy bay ném bom của Mỹ khi các máy bay này trở lại căn cứ Liên Xô. Và máy bay Đức đã phát hiện ra điểm xuất kích của máy bay Mỹ trên lãnh thổ Liên Xô.
“Chiếc máy bay ném bom cuối cùng của Mỹ đã kéo theo chiếc máy bay trinh sát của Đức, nó chỉ lượn một vòng xung quanh sân bay và biến mất. Máy bay chiến đấu của chúng tôi đã cố gắng đánh chặn nó, nhưng không thành công” , thợ máy Yuri Dubrovin nhớ lại.
Ngay đêm hôm sau, 21/6/1944, các máy bay ném bom của Đức và Hungary oanh kích dữ dội sân bay gần Poltava. Cả tiêm kích đánh chặn của Liên Xô lẫn lực lượng cao xạ tại chỗ của họ đều không thể chặn được máy bay phát xít. Ngược lại, hỏa lực cao xạ Liên Xô lại còn có tác dụng làm điểm định hướng lý tưởng cho các máy bay Đức lao tới tấn công sân bay.
Lực lượng Mỹ chịu thiệt hại nặng nề khi mất 47 trên tổng số 73 máy bay triển khai tại đây. Một lượng lớn đạn dược và trang bị kỹ thuật cũng bị phá hủy sau cuộc không kích. "Đây là thiệt hại nặng nhất của chúng ta tại một sân bay đơn lẻ trong toàn bộ cuộc chiến", John Pesch, sĩ quan chỉ huy phi đội B-17 cho biết.
Máy bay Mỹ cất cánh tại sân bay Poltava.
Các chỉ huy Mỹ đổ lỗi cho phía Liên Xô về thảm họa này, họ chỉ trích hệ thống phòng không của Liên Xô quá yếu và không chuẩn bị máy bay tiêm kích có khả năng chiến đấu ban đêm. Phía Mỹ yêu cầu được triển khai hệ thống phòng không và máy bay tiêm kích riêng của họ từ Mỹ sang.
Những cáo buộc của Mỹ là có lý, Liên Xô đã không bảo vệ đầy đủ cho sân bay và không có một máy bay chiến đấu ban đêm nào túc trực tại sân bay khi bị tấn công. Hỏa lực tuy dày đặc nhưng hỗn loạn từ các khẩu đội pháo cao xạ không bắn trúng được một máy bay nào của Đức.
“Người Nga lẽ ra có thể chuẩn bị tốt hơn. Chúng tôi đã không gặp phải sự kháng cự nào cả. Tôi đoán người Mỹ và người Nga đã có sự hiểu lầm lớn với nhau” , Heinz Kiel, nhân viên điều hành đài chỉ huy của Đức cho biết.
Chiến dịch Frantic tạm thời bị dừng lại. Các máy bay còn lại được triển khai đến các sân bay của Italia. Mối quan hệ giữa những người Mỹ và Liên Xô còn lại tại các sân bay trở nên cực kỳ lạnh nhạt và căng thẳng. Mặc dù căng thẳng giữa đôi bên lên cao, cuối cùng chiến dịch này vẫn được nối lại vào tháng 8/1944, nhưng quy mô nhỏ hơn trước rất nhiều.
Máy bay Mỹ tại Poltava bị phá hủy sau khi Không quân Đức tấn công.
Vào ngày 19/9/1944, tất cả các máy bay ném bom và tiêm kích Mỹ còn lại rời khỏi các sân bay ở khu vực Poltava.
Lý do hủy bỏ chiến dịch này là do Hồng quân Liên Xô đã tiến nhanh về phía Tây, khiến cho Poltava nằm lùi sâu về hậu phương và không còn ý nghĩa với việc mở rộng tầm tấn công cho oanh tạc cơ Mỹ.
Vào tháng 10/1944, phần lớn nhân viên Mỹ còn lại đã được sơ tán khỏi Liên Xô. Trong suốt mùa đông năm 1944-1945 chỉ còn lại khoảng 200 người hoạt động tại các sân bay này. Vì ở xa chiến trường chính ở châu Âu, họ tự gọi mình là “bị lãng quên ở Ukraine”.
Chỉ sau khi chiến tranh ở châu Âu đã kết thúc hơn sáu tuần, ngày 22/6/1945, những người Mỹ cuối cùng mới rời Ukraine để đến vùng Viễn Đông của Liên Xô để chống quân Nhật.
Tóm lại, một chiến dịch được phát động với mục đích cao cả là cải thiện quan hệ Xô-Mỹ nhưng rốt cuộc lại khiến mọi thứ xấu đi.
(Nguồn: Russia Beyond)