Chiến tranh đồng nghĩa với đau thương, mất mát, khó có thể đong đếm được, từ sự chiêm nghiệm của người đã đi qua cuộc chiến, nhà thơ triết lý: “Đời là những cuộc trả vay… thiếu thừa”, nghe chân thực mà xót xa!
Nếu như 8 câu lục bát trên nói về thời gian quá khứ “Ngày xưa…”, thì 6 câu dưới lại nói về thời gian hiện tại “Em giờ…”: “Em giờ đi sớm về trưa/ Nơi đâu bươn chải nắng mưa cuộc người”, chiến tranh không chỉ là mất mát, hy sinh mà còn là nguyên nhân chia cắt tình cảm, để bây giờ “bặt” tin em.
Trở về sau chiến tranh, có thể Em cùng bao người khác, phải vất vả với mưu sinh “cuộc người”. Có thể hiểu “bươn chải” là vật lộn một cách vất vả để kiếm sống. Chỉ cần hai câu lục bát và cách dùng từ đắc địa, tác giả cũng phần nào tái hiện cuộc sống khó khăn của người may mắn trở về.
Dẫu biết cái gì đã qua không thể lấy lại được, tuy vậy, mỗi khi nhớ về kỷ niệm ấm áp ngày xưa, người thơ không khỏi bồi hồi xúc động: “Bếp xưa dù đã xưa rồi/ Nhưng hương lửa vẫn bồi hồi trong tôi”. “Lửa” xuất hiện lần thứ 3 nhưng được chuyển đổi nghĩa thành “hương lửa”. Phải chăng đó là hơi ấm, hay nói đúng hơn đó là hương vị của tình yêu?
Hai câu thơ cuối, lần thứ 4 “lửa” lại xuất hiện làm nên một cái kết đẹp đẽ cho bài thơ: “Vời trông ngọn khói cuối trời/Lửa lòng như vẫn còn rời rợi mong”. “Lửa lòng” chỉ tính chất sôi động, nóng bỏng, hừng hực khí thế trong sâu thẳm lòng người.
Câu cuối, tác giả dùng biện pháp nghệ thuật so sánh kết hợp với từ láy “rời rợi”, càng làm tăng “độ nóng” của tình cảm. Đó là sự mong nhớ day dứt kết nối sợi dây tình cảm giữa xưa và nay, tạo thành sự đồng cảm dễ lây lan.
Hình ảnh sợi khói bên trời được lặp lại hai lần ở hai thời điểm khác nhau (xưa và nay) đem đến sự liên tưởng thú vị. Khói khi “Em xin lửa nấu cơm” là “một trời khói xanh”, có độ lan rộng bao phủ, còn khói trong tưởng tượng của thi nhân chỉ là “ngọn khói cuối trời” xa tắp, mịt mù, vô định.
Như vậy, hình tượng “Lửa” trong bài thơ “Lửa… đợi” của Lê Nhuệ Giang, luôn có sự phát triển nhất quán. Đó là ngọn lửa lòng, lửa của tình yêu sưởi ấm động viên nhân vật trữ tình vượt qua những thử thách của cuộc sống. Và hơn thế, nó đã làm sáng lên ngọn “Lửa lòng” trong tâm cảm nhà thơ và trong lòng người đọc.
Bằng thể thơ lục bát ngọt ngào đằm thắm, cách dùng từ giản dị, sâu lắng, thông qua kỷ niệm đẹp “Ngày xưa”, cùng nỗi mong chờ khát khao của nhân vật trữ tình, bài thơ đã để lại dư ba trong lòng người đọc về tình cảm thủy chung như nhất, cùng khát vọng tình yêu, thật đáng trân trọng.
Tác giả Nguyễn Thị Bình nguyên là Quyền Trưởng khoa Xã hội Du lịch - Trường Đại học Hoa Lư Ninh Bình; Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Ninh Bình; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tác giả đã xuất bản được 6 đầu sách, gồm 3 tập lý luận phê bình, 3 tập thơ.
3 tập lý luận phê bình của Nguyễn Thị Bình đều đạt giải thưởng Trương Hán Siêu của tỉnh, trong đó cuốn “Dòng sông thao thiết” và “Mạch nguồn tri âm” đạt giải C của Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam.
Trong 3 tập thơ của Nguyễn Thị Bình, tập “Chạm vào nỗi nhớ” đạt giải Khuyến khích của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 2018, tác giả đạt giải Nhất cuộc thi thơ “Sống khỏe sống đẹp” do Báo Người cao tuổi tổ chức.