Thế trận trong chiến dịch mùa Xuân 1968 diễn ra ác liệt, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất trong Thành Huế. Nhưng trước thế phản công mạnh mẽ cùng sự tăng cường lực lượng, đối phương khiến quân giải phóng phải rút khỏi Huế lên chiến khu, chờ thời cơ phản kích.
Đêm 20/5/1968, ông Tòng cùng đồng đội nhận lệnh từ Bộ Tư lệnh Quân khu tấn công vào căn cứ tăng thiết giáp của địch đóng tại Động Tòa, (Thủy Châu, Hương Thủy). Trong trận này, quân ta huy động 3 Tiểu đoàn, trong đó có 2 Tiểu đoàn Đặc công của Thành đội Huế và 1 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 6 thuộc Quân khu Trị Thiên tấn công căn cứ có gần 200 chiến xa và 1.500 binh sĩ đồn trú.
Sau khi lọt qua hàng rào, một chiến sĩ tổ hỏa lực B41 của Lê Hữu Tòng vấp phải pháo sáng nên đối phương bắn ra dữ dội. Cùng lúc binh lính và xe tăng của chúng tiến ra càn quét. Quân giải phóng xung phong vượt rào liên tục gặp phải thương vong rất lớn.
Ông Tòng bình tĩnh đặt khẩu B41 lên vai, nín thở, nhắm vào xe tăng đầu tiên, khóa mục tiêu và bấm cò súng. Xe tăng phát nổ. Tiếp tục, khẩu B41 trên vai phụt lửa nhả đạn vào xe tăng thứ hai khiến nó nổ tanh bành. Không dừng lại, ông nhắm bắn thành công 2 xe tải quân sự GMC chở lính tăng cường ra phía ngoài phản kích bộ đội ta.
Vừa bắn, ông Tòng vừa thay đổi vị trí liên tục để tránh bị phát hiện. Dù nhiều đồng đội ngã xuống, nhưng ông Tòng không nao núng. Cứ vài phút, ông lại nhắm B41 vào từng cụm hỏa lực địch, nhả đạn tiêu diệt. Bắn hết 10 quả đạn mang theo, ông yêu cầu 2 đặc công trợ thủ là Hà Ngọc Chuyên và Ngô Lương Viễn tìm nhặt số đạn B41 của đồng đội hy sinh đang còn gùi trên lưng, tiếp tục bắn vào các điểm hỏa lực của địch.
Tổng cộng, Đại đội 3 của ông Tòng tiêu diệt khoảng 100 tên địch. Riêng ông Tòng đã bắn 18 quả đạn B41. Đây là một kỷ lục ít ai làm được, vượt xa lý thuyết chịu đựng của con người trong chiến tranh.
Nhiều giấy chứng nhận Dũng sĩ, Huân chương mà Trung tá Tòng nhận được trong quãng đời binh nghiệp vẻ vang. |
Từ năm 1969 đến Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975, ông Lê Hữu Tòng trở về hoạt động tại Hương Thủy và kinh qua nhiều chức vụ như Đại đội trưởng Đại đội 3 Đặc công; Huyện đội phó; Quyền Huyện đội trưởng; Huyện đội trưởng.
Ông cùng đồng đội lập nhiều chiến công vang dội ở địa phương như tiến hành tập kích Chi khu quân sự Nam Hòa, diệt nhiều lính và phá hủy 1 trận địa pháo; diệt chốt quân sự xóm Cầu với 1 Trung đội; tiêu diệt các cứ điểm ở Tây Nam Huế từ La Sơn đến Mỏ Tàu; diệt và làm tan rã 3 Trung đội “Nghĩa quân” của đối phương.
Thời điểm quyết định, từ 8 - 12/3/1975, Lê Hữu Tòng đã chỉ huy 2 Đại đội bộ binh đánh thẳng xuống đồng bằng, bỏ qua các căn cứ lớn với mục tiêu tấn công vào các trụ sở, lực lượng ác ôn ở nông thôn, hỗ trợ nông dân nổi dậy giành chính quyền góp phần giải phóng Thừa Thiên Huế vào ngày 26/3/1975.
Nhiều lần vào sinh ra tử, nhìn lại năm tháng chiến đấu, ông Tòng nghĩ đến đồng đội đã ngã xuống, trăn trở khôn nguôi.
“Trận đánh rạng sáng mùng 1 Tết Mậu Thân 1968, tôi chứng kiến nhiều người hy sinh ngay trước mắt mình khi vừa nổ phát súng đầu tiên. Ở trận phản kích đồn Mang Cá ngày 15 Tết, tôi tận mắt thấy anh Tế - Tiểu đội trưởng bị đạn bắn gục tại chỗ. Hai người vác đạn cho tôi, người chết, người bị thương. Đường rút lui quân ta lên chiến khu trong chiến dịch Mậu Thân đó, pháo trút trên đầu như mưa, người chết, người bị thương la liệt trên đường…”, đôi mắt ông Tòng ứa lệ khi nhắc lại ký ức xưa.
Về hưu, ông Tòng lặn lội đi tìm hài cốt liệt sĩ như một sự tri ân đồng đội đã khuất. Ông còn làm cầu nối khi mời đồng đội còn sống trước đây cùng tìm kiếm; hay chỉ dẫn tận tình cho thân nhân liệt sĩ tìm hài cốt tại chiến trường xưa. Ông thường nói: “Tình đồng chí, nghĩa sơn hà. Chúng ta may mắn còn sống nên phải nỗ lực, sống trọn tình, vẹn nghĩa với đồng đội đã hy sinh”.
Trong cuộc đời binh nghiệp, Trung tá Lê Hữu Tòng được tặng 4 danh hiệu Dũng sĩ; 7 Huân chương (2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhì). Ngoài ra, ông Lê Hữu Tòng còn được Chủ tịch nước CHDCND Lào tặng Huân chương Tự do trong thời gian ông tham chiến ở vùng Nam Lào.