Đó là “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” trong bối cảnh mới khi trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi quan trọng dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Vì thế, cần xây dựng một khế ước xã hội mới về giáo dục, trong đó gồm nguyên tắc nền tảng giáo dục có chất lượng suốt đời là một trong những quyền cơ bản của con người.
Ghi nhận những thành tựu về thể chế học tập suốt đời thời gian qua, nhưng TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận thấy, ở Việt Nam, học tập suốt đời chưa được quan niệm là một giai đoạn phát triển mới về chất của giáo dục và thường được đánh đồng với giáo dục không chính quy, giáo dục dành cho người lớn, ngoài nhà trường.
“Dù học tập suốt đời được nói tới nhiều, nhưng khái niệm này chưa được chính thức làm rõ ngay trên các văn bản pháp quy. Đây là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những bất cập khác”, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nêu vấn đề, đồng thời viện dẫn, tư tưởng chủ đạo trong xây dựng thể chế học tập suốt đời vẫn theo mô hình học tập truyền thống. Tâm lý học để thi, thay vì học tập suốt đời vẫn chi phối trong tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục.
Hệ quả là GDTX, dù rằng được xếp ngang hàng trong luật với giáo dục chính quy, nhưng trong thực tế bị coi nhẹ, thậm chí bị ngấm ngầm coi như giáo dục hạng hai, dành cho người mù chữ, trẻ em thiệt thòi, học sinh yếu kém. Về cơ bản, hệ thống giáo dục quốc dân chưa được tái cơ cấu để các phân hệ giáo dục chính quy và GDTX được coi trọng như nhau và liên thông với nhau.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận thấy cần thiết ban hành Luật Học tập suốt đời trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Khi đó, Luật Học tập suốt đời sẽ là cấu phần mới cần thiết và tất yếu của thể chế giáo dục.
“Với thực tế ban hành các văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập suốt gần 40 năm qua, cùng các kinh nghiệm và khuyến nghị phong phú trên thế giới về học tập suốt đời, chúng ta đã có cơ sở dữ liệu đầy đủ và tin cậy cho việc xây dựng Luật Học tập suốt đời”, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến khẳng định.
Từ nghiên cứu của mình, bà Bùi Thanh Xuân và các cộng sự đề xuất 8 nhóm chính sách cần được thể chế hóa trong dự thảo Luật Học tập suốt đời, gồm: Xây dựng hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, có khả năng chuyển đổi cao; phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa và giáo dục bên ngoài hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng xã hội học tập từ cơ sở, khai thác tối đa tiềm năng của các mô hình học tập trong cộng đồng và tại nơi làm việc.
Xây dựng cơ chế đánh giá và ghi nhận, xác nhận, công nhận các trình độ học tập; bảo đảm chất lượng giáo dục trong học tập suốt đời; tăng cường chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ giáo dục phục vụ cho học tập suốt đời; hoàn thiện cơ chế quản lý hệ thống học tập suốt đời; xây dựng cơ chế bảo đảm sự tham gia chủ động, tích cực của chính quyền các cấp trong quản lý, chỉ đạo và thực thi các hoạt động học tập suốt đời; thành lập chuyên ngành giáo dục người lớn trong các trường đại học nhằm thể chế hóa văn bằng, chứng chỉ cho đội ngũ dạy các chương trình học tập suốt đời.
Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, học tập suốt đời vẫn là khái niệm chưa rõ ràng. Ngay trong giới nghiên cứu khoa học giáo dục, hiện vẫn chưa đi đến hiểu thống nhất và chính thức về các khái niệm học tập suốt đời, học chính quy, học không chính quy, học phi chính quy.