Tính toán giải pháp thay thế việc bỏ rừng
Chính vì những giá trị của rừng tự nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng Bình Thuận có thể tính toán giải pháp thay thế khác để vừa có thể có nước phục vụ cho người dân, vừa có thể giữ được rừng tự nhiên.
GS-TS Vũ Trọng Hồng đề xuất hồ Ka Pét nếu không làm vẫn có giải pháp có nước cho vùng này bằng cách chuyển nước từ hồ La Ngà 3 về sông Bà Bích và làm đập dâng hạ lưu thì sẽ thay hồ Ka Pét để phục vụ nước cho người dân. Ngoài ra, chúng ta còn có thể chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp từ những giống cây cần nhiều nước sang những giống cây cần ít nước.
“Hồ Ka Pét nhỏ được thiết kế điều tiết nhiều năm có nghĩa có năm có nước, có năm không có nước, với những năm không có nước thì không thể cấp nước cho người dân và phục vụ sản xuất. Do vậy phải dùng giải pháp khác” - ông Hồng nói.
TS Đinh Quang Diệp cũng đánh giá thêm khi tiến hành thực hiện dự án, cần tham vấn các chuyên gia về từng lĩnh vực trong đánh giá tác động môi trường của dự án này.
“Một số giải pháp đã được đề xuất tôi cho là hiệu quả mà chúng ta cần tham khảo là việc sử dụng hiệu quả và tận dụng các hồ tự nhiên, nhân tạo nhỏ hơn hiện có ở các vị trí khác. Ngoài ra là giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Trong đó, lựa chọn cơ cấu cây trồng phù hợp, ít có nhu cầu về nước hoặc áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước (tưới nhỏ giọt) của Israel trong nông nghiệp cũng đã được các chuyên gia đề xuất” - TS Diệp nói.
TS Diệp nói thêm việc trồng rừng hỗn giao nhiều tầng bằng các loài bản địa thì cũng phải mất thời gian khá dài (50-100 năm) mới có thể có được cánh rừng gần giống như hiện nay. Ngay cả khi trồng rừng hỗn giao thành công thì các chức năng của rừng mới cũng không thể so sánh được với rừng tự nhiên.
Đồng quan điểm, GS-TS Vũ Trọng Hồng cho rằng một khu rừng bị mất đi nếu trồng lại có thể tốn ít nhất 50 năm sau mới có thể giữ được nước. Do đó, khi hồ Ka Pét tại Bình Thuận được xây dựng, nếu trồng lại cũng phải tốn ít nhất 50 năm nữa thì rừng được trồng lại mới cho nguồn nước.
“Giá trị của rừng tự nhiên là rất lớn so với rừng trồng”
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, TS Đỗ Văn Thông, Phân viện trưởng Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Nam Bộ (là đơn vị thực hiện kiểm kê hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp thuộc dự án hồ chứa nước Ka Pét), cho biết tổng trữ lượng gỗ (với những cây có đường kính từ 6 cm trở lên) khu vực điều tra là 97.527 m3, trong đó rừng tự nhiên là 97.251,1 m3 và rừng trồng là 275,9 m3.
Để điều tra, xây dựng bản đồ hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp, phân viện đã sử dụng phương pháp giải đoán ảnh vệ tinh bằng các phần mềm chuyên dụng kết hợp với điều tra bổ sung trên thực địa.
Từ đó xây dựng được bản đồ và tính toán được diện tích các trạng thái rừng và đất lâm nghiệp trong vùng dự án phân theo loại rừng, phân theo đơn vị quản lý hành chính cấp xã, phân theo đơn vị chủ rừng là tổ chức, phân theo đối tượng rừng (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất và ngoài ba loại rừng).
Theo đó, khu vực thực hiện dự án có năm trạng thái rừng tự nhiên, trong đó mật độ cây gỗ của các trạng thái rừng tự nhiên lá rộng rụng lá trên 500 cây/ha. Mật độ của các trạng thái rừng hỗn giao gỗ - tre nứa và hỗn giao tre nứa - gỗ mật độ dưới 400 cây/ha. Ưu thế nhiều nhất là các loài: bằng lăng, căm xe, sổ, cóc rừng, thẩu tấu, dầu đồng… Kết quả tính toán từ 96 ô tiêu chuẩn bắt gặp được hai loài quý, hiếm trong Sách đỏ Việt Nam là giáng hương, sơn điều.
Đoàn công tác của Sở NN&PTNT khảo sát khu vực làm dự án tại rừng Sông Móng - Ka Pét ngày 6-9. Ảnh: VÕ TÙNG
Bên cạnh đó còn một số loài cây thuộc gỗ nhóm I, II như cẩm liên, căm xe, cà chắc, sến cát, xây…
Ngoài ra, theo kết quả tính toán từ 96 ô tiêu chuẩn điều tra điển hình có diện tích 1.000 m2/ô với 4.262 cá thể cây gỗ được đo ghi nhận được có tổng 78 loài, thuộc 62 chi, 35 họ thực vật. Ông Thông cho biết: “phân viện là đơn vị tư vấn chuyên ngành, có trách nhiệm đánh giá hiện trạng rừng nên hiện trạng có sao chúng tôi đánh giá vậy để địa phương và các bên nắm rõ trước khi xem xét triển khai dự án. Còn việc sử dụng kết quả này để triển khai dự án là trách nhiệm và thẩm quyền thuộc về địa phương và các cấp có thẩm quyền”.
“Tuy nhiên, xét về góc độ khoa học, nếu phải chuyển đổi một diện tích lớn rừng tự nhiên thì rất tiếc vì vai trò và giá trị của rừng tự nhiên là rất lớn so với rừng trồng, đặc biệt là chức năng bảo tồn đa dạng sinh học và chức năng phòng hộ. Liên quan đến việc phải chuyển đổi diện tích rừng này để làm dự án phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do vậy, các bên cần xem xét, đánh giá, cân nhắc ở mọi góc độ để dự án đáp ứng được mục tiêu và mang lại hiệu quả cao nhất đối với địa phương, cả nước và toàn xã hội” - TS Thông nói.