Mô hình giáo dục trực tuyến cũng có thể được hiểu theo nghĩa nội dung các môn học, hoạt động giáo dục được thiết kế sẵn và vận hành trên hệ thống quản lý đặc thù (hệ thống quản lý học tập hoặc hệ thống quản lý nội dung).
Với cách tiếp cận này (chủ yếu dựa trên trục tích hợp dữ liệu dùng chung), nhà trường có thể cho phép học sinh lựa chọn nội dung phù hợp để làm bài tập, kiểm tra đánh giá, tham khảo, tự học theo nhu cầu cá nhân hoặc dưới sự hướng dẫn của thầy cô (theo chương trình định sẵn).
Hệ thống này được vận hành song song cùng với hoạt động dạy học trực tiếp hàng ngày của nhà trường. Giáo viên có thể đưa nội dung bài giảng và nhiệm vụ học tập lên hệ thống, học sinh truy cập, sử dụng các chức năng có sẵn của hệ thống để thực hiện yêu cầu tương ứng.
Mô hình này có khả năng tích hợp mạnh các giải pháp công nghệ đáp ứng khá linh hoạt nhu cầu giảng dạy, đa dạng hóa hoạt động học tập của học sinh cũng như quản lý hành chính sư phạm hiện hữu trong nhà trường. Đây cũng là hướng đi tích cực hỗ trợ khả năng tiếp cận, mở rộng kiến thức kỹ năng cho học sinh; tăng khả năng tương tác với bạn bè, thầy cô trong quá trình học tập mà không bị giới hạn bởi thời gian và không gian theo chương trình giáo dục nhà trường.
Việc xây dựng và phát triển hệ thống quản lý học tập tích hợp trong quá trình dạy học của nhà trường đòi hỏi đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về sư phạm, chương trình giáo dục, hạ tầng, kết cấu công nghệ và điều kiện cơ sở vật chất phù hợp. Hơn nữa, mô hình này cần được thiết kế tổng thể, khoa học, đòi hỏi đầu tư lớn, bài bản và khá thách thức trong công tác vận hành đối với nhà trường phổ thông.
Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030” đã được ban hành. Mục tiêu của Đề án cũng chỉ rõ vấn đề mấu chốt cần giải quyết đó là mối quan hệ giữa nội dung và phương thức thực hiện giáo dục trực tuyến.
Điều này không chỉ là số hóa nội dung của chương trình giáo dục, “tin học hóa” kỹ năng cho đội ngũ hay “hiện đại hóa” hạ tầng của nhà trường. Để xác định và thiết kế được nội dung (5% ở tiểu học, 10% ở trung học) và triển khai phù hợp với hình thức trực tuyến, vấn đề cấp bách nhất hiện nay chính là thay đổi nhận thức và chuẩn hóa năng lực số của đội ngũ giáo viên hiện tại và tương lai.
Để đạt được mục tiêu có 5% hay 10% nội dung “trực tuyến” cần loại bỏ hoàn toàn thói quen chờ đợi có sách giáo khoa rồi thực hiện “số hóa”. Trái lại, nên tiếp cận trực diện từ những đặc điểm chính của giáo dục trực tuyến (không có sự hiện diện, tiếp xúc trực tiếp của các chủ thể; khả năng ảo hóa, chia sẻ và tái sử dụng của nội dung, tính ưu việt, hỗ trợ của giải pháp công nghệ…) để từ đó khai thác, phát triển nội dung dạy học phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết và tâm sinh lý học sinh. Đối với năng lực số, đó là những yêu cầu mới về khả năng tổ chức hoạt động sư phạm trong môi trường trực tuyến, tương tác và giao tiếp thông qua công cụ số; khai thác, sáng tạo nội dung số… của giáo viên.
Về quản lý vĩ mô, cần thống nhất xây dựng nền tảng quản lý học tập chung, cơ sở dữ liệu dùng chung, trục dữ liệu chung cho các cấp học. Trên nền tảng chung này, mỗi nhà trường có thể chủ động đề xuất tích hợp thêm hạ tầng và giải pháp công nghệ, phát triển và đấu nối hệ thống chức năng bổ sung, lựa chọn hoạt động triển khai trong môi trường trực tuyến linh hoạt, phù hợp tùy theo điều kiện cụ thể.
Ngày 25/1/2022, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu của Đề án là tận dụng tiến bộ công nghệ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong dạy và học, nâng cao chất lượng và cơ hội tiếp cận giáo dục, hiệu quả quản lý giáo dục; xây dựng nền giáo dục mở thích ứng trên nền tảng số, góp phần phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Một trong những mục tiêu đáng chú ý là đến 2025, tỷ trọng nội dung chương trình giáo dục phổ thông được triển khai dưới hình thức trực tuyến đạt trung bình 5% ở tiểu học và 10% ở phổ thông; tỷ trọng lớp học trực tuyến trong các cơ sở giáo dục đại học đạt trung bình 20%. Đến năm 2030, đưa tất cả thành tố của hệ thống giáo dục quốc dân vào môi trường số.
* TS Tôn Quang Cường hiện là Chủ nhiệm Khoa Công nghệ giáo dục, Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội.