Thời Tần, dân số Trung Quốc có khoảng 20 triệu người, chủ yếu là nông dân. Muốn đối phó tộc Hung Nô (bộ tộc chủ yếu chiến đấu trên lưng ngựa), nhà Tần phải chuẩn bị một lực lượng kỵ binh hùng hậu. Trong khi đó, quân Tần bấy giờ chủ yếu là bộ binh.
Việc biến những người nông dân ít cưỡi ngựa trở thành các đội kỵ binh không chỉ tốn thời gian, tiền bạc mà còn ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, vừa canh tác nông nghiệp, vừa xây thành đắp lũy vốn là thế mạnh của người Trung Hoa.
Ngay cả khi chuẩn bị được lực lượng kỵ binh mạnh mẽ, việc vận tải lương thực tới khu vực hoang mạc phía bắc – nơi người Hung Nô sinh sống – cũng có thể trở thành “ác mộng” đối với quân Tần. Khác với các chiến binh Hung Nô vừa đánh trận vừa chăn thả gia súc, binh sĩ Tần chủ yếu dựa vào thóc lúa chuyển từ hậu phương.
Đối với Tần Thủy Hoàng, đây là bài toán thiệt – hơn dễ lựa chọn, theo Lsqww.
Các chiến dịch thời Hán Vũ Đế (156 TCN – 87 TCN) và thời Minh Thành Tổ (1360 – 1424) là bài học lớn nhất cho thấy sự vô nghĩa của việc vượt qua Trường Thành để tấn công Hung Nô, Mông Cổ, theo Sohu.
Năm 127 TCN, Hán Vũ Đế cử tướng Vệ Thanh và Lý Tức dẫn quân đánh Hung Nô, chiếm được vùng Hà Sáo (thuộc Nội Mông). Năm 121 TCN, Hán Vũ Đế cử Hoắc Khứ Bệnh dẫn quân lên phía bắc, đánh sâu vào đất Hung Nô.
Hán sử chép, Hoắc Khứ Bệnh dẫn quân vượt nghìn dặm, đánh phá 5 tiểu quốc của tộc Hung Nô. Nhà Hán chiếm được nhiều đất đai của Hung Nô và thành lập quận huyện.
Năm 119 TCN, Hán Vũ Đế lại cử tướng Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh tấn công Hung Nô. Để phục vụ chiến dịch này, nhà Hán đã huy động 10 vạn kỵ binh, 14 vạn ngựa chiến và 50 vạn bộ binh, dân phu làm hậu cần.
Kết quả là quân Hán thắng lớn, thu hàng 4 vạn quân và bắt sống nhiều quý tộc Hung Nô.
Tuy nhiên, tộc Hung Nô không chịu khuất phục.
Từ năm 119 TCN đến năm 90 TCN, tộc Hung Nô và quân Hán liên tục giao tranh. Nhà Hán thiệt hại lớn về kinh tế. Đến năm 90 TCN, quân Hán và Hung Nô đại chiến ở Ngũ Nguyên (thuộc vùng Nội Mông), quân Hán thua to, tổn thất hơn 1 vạn người.
Sau thất bại này, Hán Vũ Đế phải cầu hòa và cống nạp cho Hung Nô. Hầu hết vùng đất nhà Hán thu được trước đó lại về tay Hung Nô.
Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn tập hợp hầu hết bộ lạc du mục ở vùng Đông Bắc Á thành nhà nước Mông Cổ. Đến thời điểm này, tộc Hung Nô đã suy tàn, dần bị đồng hóa vào các dân tộc khác, không còn cai trị vùng thảo nguyên Mông Cổ nữa.
Thời Minh Thành Tổ (1360 – 1424), nhà Minh đã 5 lần Bắc phạt hòng tiêu diệt tận gốc thế lực của Mông Cổ. 5 lần xuất quân, nhà Minh đều đánh thắng nhưng không chiếm được vùng đất nào của Mông Cổ.
Năm 1424, Arughtai – một trong các thủ lĩnh của Mông Cổ – tấn công thành Khai Bình và Đại Đồng. Minh Thành Tổ đáp trả bằng cách phát động chiến dịch Bắc phạt lần thứ 5.
Trước đó, trong chiến dịch Bắc phạt lần thứ 3 (cách đó 2 năm), nhiều đại thần đã can gián Minh Thành Tổ, cho rằng không nên động binh chống Arughtai vì sẽ làm quốc khố trống rỗng. Trong 3 viên đại thần khuyên can, có 1 người tự sát còn 2 người bị Minh Thành Tổ trị tội.
Tháng 4/1424, Minh Thành Tổ hội quân lớn ở Bắc Kinh, tiến đánh Arughtai. Quân Mông Cổ đánh vài trận nhỏ rồi bỏ chạy. Các tướng khuyên Minh Thành Tổ dẫn quân truy kích sâu vào vùng Nội Mông, nhưng ông đã quá mệt mỏi, hạ lệnh lui binh.
Theo Sina, quân Hung Nô chủ yếu chiến đấu trên lưng ngựa, đến và đi “nhanh như gió”. Đối với tộc Hung Nô, việc tấn công và cướp phá các vùng đất của Tần mang lại “lợi nhuận cao và rủi ro thấp”.
Nhưng đối mặt với Vạn Lý Trường Thành, lợi thế cơ động của quân Hung Nô bị chặn đứng. Công phá thành trì không phải thế mạnh của Hung Nô.
Sơn Hải Quan – một phần của Vạn Lý Trường Thành (ảnh: Xinhua)
Theo Sohu, Vạn Lý Trường Thành được thiết kế và xây dựng một cách thông minh. Mặt thành rất rộng (5 – 6 mét), giúp quân Tần tăng tính cơ động, dễ dàng vận chuyển vũ khí và tăng viện nhanh trên mặt thành.
Khi quân Hung Nô tấn công vào một phần của Trường Thành, họ phải nhanh chóng rút lui nếu không muốn bị áp đảo về lực lượng.
Hơn 1.500 năm sau khi Tần Thủy Hoàng cho xây dựng, Vạn Lý Trường Thành vẫn thể hiện lợi ích trong nỗ lực phòng thủ của nhà Minh, theo Lsqww.
Từ năm 1618 đến năm 1644, quân Thanh tấn công hàng chục lần nhưng không hạ nổi Sơn Hải Quan (cửa ải đầu tiên của Vạn Lý Trường Thành, nằm ở vị trí giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh).
Tháng 5/1644, Ngô Tam Quế (tướng nhà Minh) làm phản, mở cửa Sơn Hải Quan, quân Thanh mới tiến vào được Trung Hoa.
Theo Sohu, mặc dù Tần Thủy Hoàng cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành là đúng đắn, nhưng cách ông cai trị quá hà khắc, khiến người dân khổ cực. Để xây dựng Vạn Lý Trường Thành, Tần Thủy Hoàng đã huy khoảng 1 triệu dân phu (tương đương 1/20 dân số nước Tần thời bấy giờ).
Trong quá trình xây dựng Trường Thành, hàng nghìn người đã bỏ mạng do bệnh tật, khí hậu khắc nghiệt và lao dịch cực khổ.