Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, TS. Nguyễn Trung Nam, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam) cho biết: "Nghị quyết 36 đã mang đến một luồng gió mới, đáp ứng mong mỏi của các nhà khoa học đặc biệt là các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học".
Qua gần 20 năm phát triển, lĩnh vực công nghệ sinh học đã đạt được nhiều sự tiến bộ cả về đội ngũ nhân lực, các công trình công bố quốc tế, phát triển hệ thống mạng lưới các phòng thí nghiệm và nhiều ứng dụng của công nghệ sinh học trong đời sống kinh tế-xã hội như nông nghiệp, y dược, bảo vệ môi trường, chế biến, năng lượng, an ninh quốc phòng…
Đơn cử như trong nông nghiệp, Việt Nam đã chủ động sản xuất được hơn 70% giống cây trồng, vật nuôi, trong đó, công nghệ sinh học có nhiều đóng góp trong việc cải thiện và lai tạo giống cây trồng, góp phần giúp xây dựng ra nhiều kỹ thuật canh tác hiệu quả hơn.
Ngành công nghệ sinh học đã đưa công nghệ lên men vào lĩnh vực sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm và trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng nhất cho đến thời điểm hiện tại. Nhờ ứng dụng công nghệ sinh học, con người có thể chọn được những chủng vi sinh vật có khả năng lên men tốt, hỗ trợ đắc lực trong công nghệ sản xuất nước lên men, sữa, thực phẩm chức năng protein, chất làm tăng hương vị, chế biến rau củ quả...
Trong y học, có rất nhiều công trình nghiên cứu của công nghệ sinh học đã được ứng dụng vào lĩnh vực y học, đặc biệt là trong sản xuất các loại vaccine, kháng sinh, kháng thể, protein có hoạt tính sinh học và chẩn đoán bệnh...
Tuy nhiên, hiện nay, ngành công nghệ sinh học vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi chưa có chính sách đặc thù riêng, thiếu các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
Về nguồn lực, đầu tư cho các phòng thí điểm trọng điểm về công nghệ sinh hoc còn khá ít và kinh phí cho đề tài nghiên cứu còn hạn chế, đặc biệt thiếu tính liên tục và dài hơn. Theo lý giải của TS. Nguyễn Trung Nam, từ một đề tài nghiên cứu đến ứng dụng cần khoảng 3 năm, 5 năm hoặc thậm chí dài hơn nữa. Tuy nhiên, việc cung cấp kinh phí hiện nay cho các đề tài thường là 3 năm.
Hơn nữa, về nhân lực, hiện nay, chúng ta còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành này, đôi khi các trường đào tạo vẫn chưa sát nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và xã hội.
Nhận định về mục tiêu của Nghị quyết 36 là tầm nhìn đến năm 2045, công nghệ sinh học đóng góp 10-15% vào GDP, TS. Nguyễn Trung Nam cho rằng, nếu có những giải pháp thích hợp, với sự phát triển của công nghệ sinh học, sự nỗ lực của các nhà khoa học ngành công nghệ sinh học, chúng ta có khả năng đạt được.
Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam đã đề ra nhiều giải pháp để hiện thực hóa Nghị quyết số 36 như một số cơ chế mới để ưu tiên sự phát triển của công nghệ sinh học, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân lực vào các viện nghiên cứu đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như các giải pháp liên quan đến kết nối doanh nghiệp với nhà khoa học để có thể phát triển các nghiên cứu từ phòng thí nghiệm ra ngoài thực tiễn một cách dễ dàng hơn.
Hơn nữa, bản thân công nghệ sinh học hiện nay đã có một số hướng nghiên cứu mới và có thể đem nguồn lợi kinh tế khá lớn trong tương lai. Đơn cử như hướng nghiên cứu về tế bào gốc và liệu pháp gen tại Viện Công nghệ sinh học. Ngoài ra, các hướng nghiên cứu liên quan đến sản xuất các loại vaccine thế hệ mới, các loại thuốc thế hệ, nguyên liệu làm thuốc và thực phẩm chức năng… cũng là một trong những thế mạnh của Việt Nam.
Còn theo GS. Trần Đức Viên, để ngành công nghệ sinh học Việt Nam "cất cánh", đầu tiên phải có cơ chế liên kết. Nhà nước cần tạo cơ chế để các trường, viện liên kết với doanh nghiệp, doanh nghiệp liên kết với doanh nghiệp, địa phương liên kết với địa phương, trong nước liên kết với nước ngoài để tạo thành hệ sinh thái, nguồn lực. Bên cạnh đó, cần tạo môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp để người đam mê khoa học được làm việc và cống hiến, đóng góp cho nền công nghệ sinh học nước nhà.
Các doanh nghiệp thường quan tâm, đầu tư vào các nghiên cứu ngắn hạn, có khả năng thương mại hóa cao. Do vậy, đối với các nghiên cứu mang tính dài hạn, dài hơi, vai trò "bà đỡ" của Nhà nước là rất quan trọng về mặt đầu tư.
GS. Trần Đức Viên cho rằng, không tiến bộ về mặt công nghệ nào trên thế giới mà không có vai trò "bà đỡ" của Nhà nước - đầu tư cả về con người, tài chính, thiết bị… Người Nhật trải qua khoảng 100 năm để tạo ra giống bò Wagyu hay còn được biết đến với tên gọibò Kobe nổi tiếng thế giới. Hàn Quốc cũng mất khoảng 20 năm tạo ra giống bò Hanwoo. Còn nếu quy định đề tài 3 năm phải hoàn thành, có địa chỉ ứng dụng, nghiệm thu thì rất khó. Việt Nam cần phải có chương trình đầu tư dài hơn, chiến lược dài hạn đối với ngành công nghệ sinh học dựa trên lợi thế so sánh của Việt Nam.