Học trò nghèo được Chính phủ giúp.
Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.”
Như vậy, Hiến pháp 1946 đã quy định về giáo dục bắt buộc (cưỡng bức) là giá dục tiểu học (sơ học) đối với mọi công dân Việt Nam và khi đi học cấp học bắt buộc thì học sinh được miễn phí. Tiếp theo tinh thần này, Hiến pháp hiện nay của Việt Nam (Hiến pháp 2013) cũng quy định (Khoản 2 Điều 61):
“ Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.”
Cụ thể hóa thêm quy định này của Hiến pháp 2013, Luật Giáo dục 2019 thể hiện rõ hơn tại Điều 14:
“1. Giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc.
Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
2. Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện giáo dục bắt buộc trong cả nước; quyết định kế hoạch, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục.
3. Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc.
4. Gia đình, người giám hộ có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên của gia đình trong độ tuổi quy định được học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc.”
Như vậy, vấn đề giáo dục bắt buộc tại Việt Nam được quy định theo cấp học (tiểu học), trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm các điều kiện để thực hiện giáo dục bắt buộc trong toàn quốc, gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện để các thành viên trong gia đình hoàn thành giáo dục bắt buộc.
Qua nghiên cứu các quy định về giáo dục bắt buộc ở các nước khác và Việt Nam chúng ta có thể thấy rõ những vấn đề giống nhau: trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm để thực hiện giáo dục bắt buộc, miễn phí; gia định tạo điều kiện (có trách nhiệm) để con em mình hoàn thành giáo dục bắt buộc. Tuy nhiên, cũng cần thấy trong khi nhiều nước phát triển lại quy định giáo dục bắt buộc là số năm bắt buộc hoặc độ tuổi nhất định mỗi công dẫn phải đi học (trong nhà trường) chứ không phải là cấp học học sinh phải hoàn thành.
Ảnh minh hoạ/ INT |
a) Giải pháp về lập Quy hoạch và triển khai thực hiện Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ thống tryng tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2050:
Luật Quy hoạch 2017 và Quyết định số 995/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 8 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về giao nhiệm vụ cho các bộ tổ chức lập quy hoạch ngành quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, trong đó Bộ GDĐT được giao tổ chức lập Quy hoạch hệ thống cơ sở GDCB và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN dành cho người khuyết tật.
Quy hoạch hệ thống cơ sở GDCB và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN dành cho người khuyết tật phải đáp ứng yêu cầu tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục cho người khuyết tật và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, giải quyết đồng bộ các vấn đề chồng chéo, mâu thuẫn có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của các cơ sở GDCB và trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN dành cho người khuyết tật.
Đây là nhiệm vụ mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay đối với người khuyết tật. Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập là cơ bản xác định một mạng lưới các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật, tồn tại song song với hệ thống các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông; để hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu bảo đảm quyền được học tập và học tập có chất lượng của học sinh khuyết tật; đặc biệt là để bảo đảm các quy định trong Hiến pháp 2013 cũng như Luật Giáo dục 2019 về giáo dục bắt buộc (cấp tiểu học) và phổ cập giáo dục (mầm non 5 tuổi, Trung học cơ sở).
Để phù hợp với thực tiễn, hệ thống đó sẽ nên bao gồm một mạng lưới cơ sở giáo dục tối thiểu dành cho học sinh khuyết tật “phải có” và cơ bản phải do Nhà nước chịu trách nhiệm bên cạnh việc khuyến khích loại hình tư thục phát triển đáp ứng như cầu xã hội và chất lượng cao.
Như vậy, sau khi Quy hoạch được phê duyệt, các địa phương trong giai đoạn 2020-2030 và cho đến năm 2050 sẽ triển khai quy hoạch để chúng ta sẽ có một mạng lưới các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật. Mạng lưới đó sẽ bảo đảm các quy định trong Hiến pháp 2013 cũng như Luật Giáo dục 2019 về giáo dục bắt buộc (cấp tiểu học) và phổ cập giáo dục (mầm non 5 tuổi, Trung học cơ sở). Hay nói cách khác, mạng lưới đó sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm giáo dục bắt buộc đối với học sinh khuyết tật và từng bước để bảo đảm phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho đối tượng này.
b) Giải pháp về xây dựng hành lang pháp lý cho các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật hoạt động hiệu quả.
Để chuẩn bị cho mạng lưới các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật được các địa phương xây dựng theo Quy hoạch sẽ được Thủ tướng phê duyệt, các địa phương sẽ triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả, một số văn bản sau cần được dần dần nghiên cứu ban hành:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập đã được ban hành kèm theo Thông tư số 20/2022/TT-BGDĐT. Với vai trò mới của Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, cụ thể Trung tâm là một cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và được phép tổ chức dạy và học cho học sinh khuyết tật bên cạnh việc hỗ trợ các học sinh học hòa nhập và bán hòa nhập ở các địa phương, các địa phương có cơ hội triển khai thành lập các cơ sở giáo dục loại hình này để phục vụ cho mục tiêu giáo dục cho học sinh khuyết tật.
Thứ hai, Quy chế tổ chức và hoạt động của trường, lớp dành cho học sinh khuyết tật, hay nói cácch khác các trường chuyên biệt và lớp chuyên biệt dành cho học sinh khuyết tật. Mặc dù chúng ta khuyến khích giáo dục hòa nhập, chúng ta phải thấy một điều rất rõ ràng rằng với điều kiện hiện nay vẫn cần phải tồn tại loại hình trường chuyên biệt cho học sinh khuyết tật. Luật Người khuyết tật 2010 cũng quy định phương thức giáo dục chuyên biệt, trong khi đó lại không có quy định thành lập loại hình này thế nào. Hiện nay, quy chế tổ chức và hoạt động của loại hình trường này cũng không có. Điều này dẫn đến việc hoạt động còn gặp nhiều khó khăn của loại hình này.
Tương tự như vậy cho loại hình lớp chuyên biệt cho học sinh khuyết tật trong các trường phổ thông/mầm non cho học sinh không khuyết tật. Để bảo đảm quyền được học tập cho học sinh khuyết tật thì loại hình lớp này cũng là một giải pháp quan trọng (từ kinh nghiệm của rất nhiều nước trên thế giới) cho việc bảo đảm quyền được hoàn thành giáo dục bắt buộc đối với học sinh khuyết tật.
Thứ ba, khi có mạng lười các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật (trường chuyên biệt/lớp chuyên biệt cho học sinh khuyết tật, Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập), cần phải có quy định về tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục/đò chơi cho các loại hình trường lớp này. HIện nay, do chưa có nên phải áp dụng tiêu chuẩn đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và phù hợp với học sinh khuyết tật. Tuy nhiên, đó chỉ là giải pháp tạm thời khi chưa thể ban hành cụ thể các quy định cho các loại hình cơ sở giáo dục này.
Cuối cùng, chế độ làm việc, vị trí việc làm cho giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục dành cho học sinh khuyết tật. Tương tư như cơ sở vật chất, hiện nay chúng ta đang phải áp dụng thông qua khung vị trí việc làm, chế độ làm việc của giáo viên mầm non, phố thông. Tuy nhiên, lâu dài chúng ta cần những quy định riêng cho loại hình đặc thù này.
c) Giải pháp về quản lý, chỉ đạo việc tổ chức dạy và học đối với học sinh khuyết tật.
Trong những năm vừa qua, mặc dù Luật Người khuyết tật đã có những quy định về vấn đề ”được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của người khuyết tật” và ”được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng”. Tuy nhiên, vẫn còn một số cách hiểu chưa đúng đắn trong quản lý chỉ đạo việc tổ chức dạy và học, dẫn đến vấn đề học tập của học sinh khuyết tật gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn các địa phương.
Thứ nhất, chúng ta cần thống nhất về quan điểm học sinh khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng. Do đó, học sinh khuyết tật khi tham gia học tập cần được đánh giá mức độ nhận thức, nhu cầu để xây dựng chương trình học tập cho chính học sinh khuyết tật đó; đó là kế hoạch giáo dục cá nhân của học sinh khuyết tật. Có thể nói một cách cụ thể rằng kế hoạch giáo dục cá nhân chính là chương trình giáo dục của học sinh khuyết tật. Chương trình giáo dục đó được dựa vào chương trình giáo dục chung, được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng trên cơ sở đánh giá khả năng và nhu cầu của học sinh.
Đặc biệt, Thông tư số 20/2022/TT-BGDĐT có quy định học sinh khuyết tật khi học theo phương thức giáo dục chuyên biệt (khi học tập tại các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập hoặc các cơ sở giáo dục chuyen biệt, các lớp chuyên biệt trong các trường phổ thông) được học tập ít nhất 5 tiết/tuần về các kỹ năng đặc thù. Đây là một điểm rất quan trọng trong quan điểm tổ chức dạy và học cho học sinh khuyết tật, bên cạnh những kiến thức phù hợp với học sinh khuyết tật, cần hình thành và phát triển cho học sinh khuyết tật các kỹ năng đặc thù nhằm vượt qua những khó khăn do dạng tật gây nên, giúp cho học sinh có thể hòa nhập cuộc sống với cộng đồng sau này.
Thứ hai, khi kế hoạch giáo dục cá nhân của học sinh đã được xây dựng thì việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục học sinh khuyết tật cần được xây dựng trên cơ sở kế hoạch giáo dục cá nhân đó (chương trình giáo dục của học sinh). Đây là vấn dề hết sức quan trọng cần làm rõ và quán triệt để việc triển khai dạy và học có hiệu quả.
Ví dụ, nếu chương trình giáo dục học sinh khuyết tật A (thể hiện trong kế hoạch giáo dục của học sinh A đó), nội dung môn Toán đề ra trong năm học đó là biết, đếm và hiểu được các số từ 1-100 (thay cho đầy đủ phải là nhiều nội dung nữa ví dụ như thực hiện được các phép tính,...), vậy, khi kiểm tra, đánh giá học sinh A này, giáo viên chỉ đánh giá trên cơ sở mục tiêu đặt ra trong kế hoạch giáo dục cá nhân đó (khi tổ chức học tập và đánh giá thường xuyên, kiểm tra định kỳ cho học sinh A đó), không lấy kiến thức môn Toán cùng lớp học sinh A của các học sinh khác, không khuyết tật hoặc kiến thức mà học sinh khuyết tật khác để kiểm tra đánh giá học sinh khuyết tật A.
Thứ ba, học sinh khuyết tật học theo kế hoạch giáo dục cá nhân hay chương trình giáo dục riêng của học sinh đó nên đồi hỏi giáo viên khi dạy lớp có học sinh khuyết tật thì sẽ phải phát huy tối đa phương pháp dạy học phân hóa, cá thể hóa để có thể hỗ trợ được học sinh khuyết tật học tập có hiệu quả. Giáo viên sẽ vất vả hơn, cần có nhiều sự hỗ trợ hơn trong quá trình thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Khi đó các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập và lâu dài là các trường chuyên biệt đối với học sinh khuyết tật sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ”hỗ trợ” các giáo viên này, đặc biệt đối với các giáo viên dạy học sinh khuyết tật học hòa nhập và học sinh học bán hòa nhập.
Cuối cùng, học sinh khuyết tật cần được đối xử ”bình đẳng” như các học sinh không khuyết tật trên cơ sở kế hoạch giáo dục cá nhân của các em: các em được kiểm tra đánh giá theo quy định, được xác nhận kết quả học tập, rèn luyện theo các nội dung trong kế hoạch giáo dục cá nhân và xác nhận hoàn thành chương trình lớp học (theo kế hoạch giáo dục cá nhân) trong học bạ, được xét khen thưởng nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập đã được đặt ra của mình. Đây là vấn đề hết sức quan trọng để bảo đảm giáo dục bắt buộc cho học sinh khuyết tật, phải coi học sinh khuyết tật là học sinh trong hệ thống, các khối lớp các em học là các khối lớp theo chương trình giáo dục của riêng học sinh đó (trên cơ sở nhưng thay cho chương trình giáo dục chung mà các học sinh không khuyết tật thực hiện). Điều này có nghĩa là, việc bảo đảm giáo dục bắt buộc (giáo dục tiểu học) đối với học sinh khuyết tật là việc nhà nước bảo đảm cho học sinh khuyết tật được tham gia ít nhất 5 năm học ở cấp tiểu học như các học sinh không khuyết tật khác.
Ảnh minh hoạ/ INT |
d) Giải pháp về tuyên truyền, vận động tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội chung tay quan tâm và có các hành động cụ thể trong việc phát triển giáo dục cho người khuyết tật.
Trước hết cần có những giải pháp về tuyên truyền một cách rộng rãi để mọi người thấy cơ hội cho người khuyết tật khi tham gia giáo dục, thấy rằng người khuyết tật có quyền và có thể tham gia, hòa nhập với đời sống cộng đồng nhờ con đường thông qua giáo dục. Hiện nay, cha mẹ hay người thân của người khuyết tật còn có tâm lý không muốn ”thừa nhận” con em mình là người khuyết tật. Điều này gây khó khăn trong việc cấp giấp xác nhận mức độ khuyết tật, đặc biệt là các dạng khuyết tật về trí tuệ hoặc các dạng khuyết tật khác liên quan đến rối loạn phổ tự kỷ. Khi phát hiện ra con em mình khuyết tật thì nhiều bậc cha mẹ lại có tâm lý chán nản, cho ràng thế là hết và không muốn cho con em mình khi bị khuyết tật tham gia giáo dục.
Tất cả các tâm lý trên không chỉ xảy ra đối với cha mẹ và người thân của người khuyết tật mà còn là tâm lý của nhiều người trong xã hội, kể cả giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Chúng ta cần có những tuyên truyền, đặc biệt về các tấm gương người khuyết tật đã vươn lên và thành công để tạo niềm tin cho mọi người liên quan. Các dịp ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4) hay ngày người khuyết tật thế giới (3/12) cần đươc tổ chức một cách thiết thực hơn, không chỉ là những hoạt động bề nổi mà còn là các hoạt động đi vào chiều sâu hơn để giúp cộng đồng thấy được cơ hội và quyền của người khuyết tật được tham gia giáo dục để bảo đảm cuộc sống riêng của người khuyết tậ và có cơ hội đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Người khuyết tật cũng như các công dân Việt Nam khác được Hiến pháp 2013 và Luật Giáo dục 2019 quy định phải được hoàn thành giáo dục cấp tiểu học, tức nhà nước sẽ bảo đảm các điều kiện để quy định này được thực thi. Tuy rằng, Việt Nam chúng ta đã có nhiều tiến bộ, song chúng ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để các quy định tốt đẹp và nhân văn này có thể được thực thi một cách đầy đủ. Nhiều giải pháp cụ thể đã được đưa ra từ nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vấn đề giáo dục đối với người khuyết tật, đến những giải pháp về việc xây dựng các hành lang về mặt chính sách để bảo đảm một cách toàn diện việc nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đối với nhóm học sinh khuyết tật.
Với việc vào cuộc của cả hệ thống chính trị và đặc biệt với chủ trương sẽ triển khai hệ thống các cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập ở các địa phương, chúng ta có quyền tin tưởng và hy vọng vào một triển vọng tốt đẹp trong thời gian sắp tới đây đối với công tác này. Từ đó, không những chúng ta có thể thực thi được quy định hiện nay về giáo dục bắt buộc mà còn có thể nghĩ đến việc dần dần thay được quy định về phổ cập giáo dục trung học cơ sở hiện nay trở thành quy định giáo dục bắt buộc (hoặc quy định về giáo dục bắt buộc sẽ mở rộng ra đến lứa tuổi 15 hoặc tiến tới 17-18) trong thời gian sắp tới như xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới.