Nhận diện triệu chứng giảm tiểu cầu trong sốt xuất huyết
Hiện tượng giảm tiểu cầu sốt xuất huyết thường xảy ra vào ngày thứ 4 của bệnh với các triệu chứng:
- Xuất huyết trên da: phần da ở thắt lưng, cẳng tay, cẳng chân, ngực, nách,... có các chấm xuất huyết rải rác.
- Xuất huyết niêm mạc: nôn ra máu, chảy máu mũi, chảy máu chân răng, đại tiện phân màu đen, tiểu ra máu,...
- Xuất huyết nặng:
+ Huyết tương thoát qua thành mạch khiến cơ thể bị mất nước.
+ Bị chảy máu mũi với mức độ nghiêm trọng.
+ Chảy máu ở âm đạo bất thường.
+ Xuất huyết phần mềm và cơ.
+ Xuất huyết não.
+ Xuất huyết nội tạng.
Tình trạng xuất huyết nặng thường kèm theo vật vã, sốc, bứt rứt, mạch nhanh, tay chân lạnh,...
Nếu phát hiện ra các triệu chứng giảm tiểu cầu sốt xuất huyết trên đây cần nhanh chóng đến bệnh viện để được can thiệp kịp thời.
Giảm tiểu cầu sốt xuất huyết nguy hiểm như thế nào?
Có nhiều mức độ giảm tiểu cầu sốt xuất huyết:
- Mức độ nhẹ: tiểu cầu giảm < 150.000="" tế="" bào/μl="">
- Mức độ nguy hiểm: tiểu cầu giảm < 50.000="" tế="" bào/μl="">
- Mức độ nghiêm trọng: tiểu cầu giảm còn 10.000 - 20.000 tế bào/μl máu.
Khi giảm tiểu cầu trong sốt xuất huyết xuống quá mức cho phép thì người bệnh vừa bị xuất huyết vừa bị giảm hoàn toàn khả năng chống lại nhiễm trùng và khả năng đông máu.
Bình thường, người bị sốt xuất huyết có cơn sốt kéo dài đi kèm triệu chứng nhức mỏi toàn thân, đau đầu, nôn,... Nặng hơn, giảm tiểu cầu sốt xuất huyết sẽ gây thoát huyết tương, ảnh hưởng đến nhiều bộ phận của cơ thể. Nghiêm trọng nhất là tiểu cầu giảm do sốt xuất huyết làm giảm huyết áp về mức cực nguy hiểm, người bệnh bị sốc và có thể tử vong.
Người bị giảm tiểu cầu sốt xuất huyết cần được chăm sóc y tế đúng cách càng sớm càng tốt. Bác sĩ sẽ cân nhắc phác đồ điều trị cho từng bệnh nhân tùy theo tình trạng giảm tiểu cầu mà họ đang gặp phải.
Nhìn chung, giảm tiểu cầu sốt xuất huyết là tình trạng nguy hiểm, cần được can thiệp y tế đúng phương pháp ngay lập tức. Bệnh sốt xuất huyết chưa có thuốc đặc trị trong khi biến chứng lại vô cùng nguy hiểm, dễ chuyển biến từ nhẹ sang nặng. Vì thế, người bệnh cần chú ý thăm khám ngay khi có dấu hiệu bệnh để được điều trị tích cực.