Truyện ngắn: Chiếc lồng chim trên gác nhỏ

16/12/2025 12:42

Sương mù buổi sáng luồn qua khe cửa gỗ mục, khẽ đung đưa chiếc lồng chim bằng tre đã bạc màu.

Minh họa/Gemini
Minh họa/Gemini

Gác nhà ông Tư như một bức tranh tĩnh vật phai nhòa: Chiếc giường đơn lẻ còn lưu lại vết lõm hình thể người phụ nữ, bàn thờ bà Tư với nén hương tàn lụi tỏa mùi trầm quen thuộc, khiến tim ông thắt lại mỗi sớm mai.

Trên giá sách mối mọt, cuốn từ điển Hán - Nôm bà dùng dạy học vẫn mở trang 127 - chỗ đánh dấu bằng cánh hoa giấy đã úa vàng, trang sách in dấu vân tay mờ nhạt của bà ở bên lề chữ “Tương tư”.

Ông cầm chiếc khăn lau từng nan tre lồng chim. Xong xuôi, ông rót cho nó một ít nước và cho thêm thức ăn. Chú chim nhỏ có lẽ đã quen với việc chăm sóc của ông, nó lơ đãng nhìn bầu trời xanh, dường như không để ý đến sự tồn tại của ông.

- Bà xem này... - Giọng ông khàn đặc trong căn phòng trống - Tre già rồi mà vẫn chưa mục... như tình tôi với bà.

Bàn tay gầy guộc lướt qua chỗ vết khắc nhỏ hình trái tim mà bà đã âu yếm khắc tên họ khi mới về chung nhà, những mảnh tre bong tróc cứa nhẹ vào da ông như lời trách móc của quá khứ.

Tiếng mưa rơi trên mái tôn nghe như tiếng khóc của trời. Ông mở ngăn kéo giường, lục tìm chiếc hộp thiếc đựng thư tình viết dở từ thời kháng chiến chống Mỹ. Từng tờ giấy pelure mỏng tang ố vàng hiện ra, nét mực xanh đã nhòe theo thời gian. Ngón tay ông lần theo dòng chữ run rẩy: “Gửi người vợ yêu dấu nơi hậu phương, khi nào hết giặc, anh sẽ đan cho em chiếc lồng chim đẹp nhất...”.

Một cánh hoa ép khô rơi ra từ kẽ thư - kỷ vật duy nhất ông gửi được về từ chiến trường Khe Sanh. Chiếc lồng tre ấy giờ đây trở thành nơi lưu giữ những kỷ niệm về tình yêu của ông với bà, mỗi nan tre là một niềm nhớ ông tự ghim vào ngực mình suốt mấy năm qua.

Trong góc tối nhất của ngăn kéo, chiếc hộp nhỏ đựng lông chim màu nâu xám vẫn nằm đó – thứ mà bà nhặt được trong buổi sáng cuối cùng trước khi vào viện. Ông áp nó lên má, tưởng tượng ra hơi ấm từ bàn tay vợ vẫn còn lưu lại.

Tiếng gió rít qua khe cửa nghe tựa tiếng thở dài của người đã khuất, những hạt bụi vàng lơ lửng trong tia nắng xiên khoang như linh hồn bà đang nhảy múa quanh chiếc lồng trống không. Căn gác nhỏ trở thành nhà hát của ký ức, nơi mỗi đồ vật đều diễn tuồng tích cũ, và ông Tư - diễn viên duy nhất - cứ thế lặp lại vở kịch cô độc suốt một thập kỷ.

Chiều mưa, tiếng gõ cửa vang lên khẽ khàng như tiếng móng tay bấm vào lớp vỏ cô đơn. Ông Tư mở cửa:

Một cô bé đứng nhìn ông với nụ cười tỏa nắng

- My à, vào đây cháu, ướt hết cả rồi - Giọng ông Tư vồn vã pha chút ngạc nhiên khi nhận ra đứa cháu nội - Bố con đâu.

Hòa, con trai ông bước xuống xe, đưa vào tay ông túi quần áo. Dạo này con bận, ông cho con gửi cháu nhé. Nói rồi anh lên xe phóng đi. Để lại ông Tư tần ngần nhìn theo với một cái chép miệng:

- Vội gì mà không kịp vào nhà thắp cho má nó một nén hương.

Ông Tư dắt cháu vào nhà, từ ngày mẹ nó đi nước ngoài thỉnh thoảng bố nó vẫn đưa nó về ở với ông.

Những ngày sau đó, căn nhà nhỏ bừng tỉnh giấc bởi tiếng dép lê xào xạc trên sàn gỗ. My bắt ông dạy nấu canh chua theo công thức bà ghi trong sổ tay nhuốm màu dầu ăn, từng dòng chữ nghiêng nghiêng của bà hiện lên qua làn hơi nước bốc lên từ nồi cá lóc.

- Phải cho thêm ngò gai vào lúc sôi réo nhất, ông ơi! - My nhắc như thể đã đọc thuộc lòng những ghi chú ấy từ lâu.

Ông Tư giật mình nhận ra đôi mắt nâu của cháu gái giống hệt vợ mình. Nó kéo ông đi chợ hoa Nguyễn Huệ, nơi hai bà cháu ngày xưa từng mua cành đào về cắm trong chiếc bình men rạn. My chạm tay vào vết nứt hình sao trên cổ bình:

- Bà ngoại bảo đây là dấu tích của một vì sao rơi xuống trần gian phải không ông?

***

Hòa trở về trong cơn giông dữ dội nhất năm. Chiếc Mercedes đen bóng đỗ chỏng chơ trước căn nhà ổ chuột, tạo ra vệt nước mưa loang lổ như vết sẹo. Anh bước vào với bộ veston sang trọng, mùi nước hoa Chanel No.5 xộc vào mũi ông Tư như lời khiêu khích - thứ hương liệu đắt tiền ấy chọc thủng lớp không khí nặng mùi mốc và trầm hương đã tồn tại nửa thế kỷ trong căn nhà.

Bữa cơm tối diễn ra trong im lặng chết người. My cố gắng kể chuyện về mấy cô bé hàng xóm, nhưng tiếng đũa gõ vào bát của Hòa như nhát dao chặt đứt không khí.

- Con định bán nhà - Hòa đột ngột phá tan sự im lặng.

- Cái gì? - Ông Tư đứng bật dậy, chiếc lưng còng bỗng thẳng tắp như thời còn cầm thước dạy học.

- Nhà cũ rồi. Con muốn đưa ba lên Sài Gòn ở chung.

- Tao không đi đâu hết! - Giọng ông vỡ ra thành nghìn mảnh sắc.

Hòa đập tay xuống bàn, chén nước mắm đổ loang như vết máu:

- Ba cứ thế này mãi sao? Cố chấp và đau khổ một mình? Con đã thuê người dọn dẹp. Hòa ném tập hợp đồng mua bán bất động sản lên bàn – Ba muốn chết trong cái ổ mối này sao? Giọng anh vang lên sắc lẹm như lưỡi dao cạo lướt qua ký ức.

Ông Tư đập mạnh tay xuống bàn khiến chén trà rơi vỡ, mảnh sành văng trúng tấm ảnh gia đình chụp năm Hòa đầy tháng - vết nứt xé toang hình ảnh người đàn ông trẻ ôm con trai trên tay.

- Mày dám đụng vào nhà của mẹ mày!

My nép vào góc tường, ngón tay bấu chặt vào lớp vữa tróc lở. Cô bé chứng kiến hai bóng người giằng co chiếc album ảnh cũ như muốn xé toạc ký ức. Hòa hất hàm về phía chiếc lồng chim:

- Cả đời ba sống với đồ vô tri! Mẹ chết rồi, ba biết không?

My bật khóc:

- Con ghét hai người! Ông cứ giữ mãi chiếc lồng không, bố thì chẳng dám nhìn vào nó!

Cả căn phòng chết lặng. Chiếc lồng chim khẽ đung đưa trong cơn gió lạnh.

Đêm đó, khi cơn giông rút đi để lại bầu trời đen kịt, ông Tư thấy Hòa đứng khóc trước bàn thờ mẹ. Bóng lưng gầy của con trai in trên tường như bản sao của chính ông mấy năm trước - cái đêm bà Tư hôn mê, ông cũng đã gục xuống chính vị trí này mà cầu xin thần chết đổi mạng. Mùi rượu whisky hòa với khói hương tạo thành thứ mùi nghẹt thở.

Ông Tư lặng lẽ đóng cửa phòng, bàn tay run run chạm vào vết sẹo dài trên khung cửa - dấu tích ngày Hòa đập nắm đấm vào gỗ thét lên:

- Ba chỉ yêu cái bóng của mẹ!

Tiếng thở dài của con trai xuyên qua vách tường mục nát, hòa cùng tiếng gió rít qua khe hở như bản nhạc ai oán. Trong góc tối, My cúi xuống nhặt những mảnh ảnh vỡ, ngón tay nhỏ bé cố ghép nối hình hài người cha trẻ tuổi đang bế đứa con. Cô bé thở dài, đặt lên bàn thờ bà Tư chiếc lá khô hình trái tim - thứ mà hai người đàn ông không nhận ra chính là kỷ vật cuối cùng bà để lại trước khi nhắm mắt.

Sáng hôm sau, ông phát hiện My đứng trên ghế đẩu cố với tay chạm vào chiếc lồng chim.

- Cháu muốn thả nó ra! - Nó hét lên khi bị ông kéo xuống, đôi mắt đỏ hoe phản chiếu hình ảnh người đàn ông gầy guộc đang run rẩy ôm lồng vào ngực như đứa trẻ.

Cả tuần sau đó, My vẽ liên tục. Những bức tranh về con chim bị gãy cánh, về chiếc lồng biết khóc, về người phụ nữ tóc dài đang thả những sợi tơ vàng buộc vào cổ tay ông. Đến ngày thứ Bảy, nó đặt trước bàn thờ bà Tư bức vẽ mới. Trong bức vẽ, ông Tư ngồi bên cửa sổ mở toang, từng đàn chim sẻ nhỏ xíu đang bay ra từ lồng ngực ông, mỗi con mang trên mình một mảnh giấy viết chữ “Love”.

***

Sáng hôm ấy, lần đầu tiên sau nhiều năm, ông Tư tự tay mở khóa lồng chim. My đứng nép sau cánh cửa, nín thở. Xong ông mở chiếc hộp cũ nhẹ nhàng đặt chiếc lông chim sâu xám vào lòng bàn tay cháu gái.

- Đây là linh hồn cuối cùng của bà... - Ông thì thầm, giọng khàn đặc vỡ vụn thành tiếng nấc.

My cầm chiếc lông chim chấm vào lọ màu tím hoa sim, vẽ thêm bóng hình bà Tư đang cười hiền hậu giữa đàn chim trắng. Căn gác nhỏ ngập tràn tiếng cười trẻ thơ lần đầu tiên vang lên sau một thập kỷ im lặng, như bản giao hưởng hồi sinh từ đống tro tàn của nỗi đau.

Chiều hôm đó, My ngồi xếp hình trên tấm thảm gỗ cũ. Bàn tay nhỏ nhắn của nó cầm mảnh ghép cuối cùng, đôi mắt long lanh ngước nhìn ông nội đang lặng lẽ ngắm chiếc lồng chim cũ.

- Ông ơi, ông giúp cháu ghép chỗ này! - Giọng con bé vang lên trong trẻo như tiếng chuông gió.

Ông Tư quay lại, bất ngờ khi thấy những mảnh ván sàn cũ - vốn là vật liệu thừa khi Hòa dùng đóng giá vẽ - giờ được cháu gái sắp xếp thành hình trái tim khổng lồ. Từng mảnh gỗ nhuốm màu thời gian được My đính kết bằng sợi chỉ màu vàng, tạo thành mạng lưới lung linh dưới ánh hoàng hôn.

- Cháu lấy từ xưởng của bố Hòa đó ông ạ! - My hồn nhiên chỉ về phía góc nhà nơi những mảnh vỡ dư thừa được xếp ngay ngắn.

Ông Tư quỳ xuống bên cháu, ngón tay run run chạm vào mảnh gỗ có khắc chữ cái ngày hai bố con cãi vã. Bỗng có tiếng bước chân vang lên sau lưng. Hòa đứng chết lặng, tay còn dính đầy bụi gốm, mắt đỏ hoe nhìn bức tranh gỗ.

- Con... con gái à..., giọng anh nghẹn lại khi phát hiện My đã ghép kín khoảng trống cuối cùng bằng chính mảnh gỗ mà cô bé đã nắn nót viết lên “Ước gì nhà mình luôn vui vẻ”.

Bé gái ngước mắt nhìn hai người đàn ông đang run rẩy, tay nắm chặt tay ông nội và bố:

- Ông với bố cùng ghép tiếp đi ạ!

Trong khoảnh khắc ấy, những mảnh vỡ của quá khứ bỗng hóa thành viên gạch nối giữa hiện tại. Ông Tư cảm nhận bàn tay Hòa đang run run nắm lấy tay mình, ấm áp và đầy ăn năn. My ngồi giữa hai cha con, tay tiếp tục xâu chuỗi những mảnh gỗ bằng sợi chỉ vàng, vô tư hát bài đồng dao bà Tư từng dạy.

Từng nốt nhạc trong trẻo ấy như dòng suối mát xóa tan vách ngăn im lặng, khiến hai trái tim già nua đầy thương tích bỗng chốc tìm được nhịp đập chung. Chiếc lồng chim cũ đong đưa trên cao, cánh cửa mở rộng để tiếng cười trẻ thơ dẫn lối cho tình phụ tử tưởng đã lạc đường trở về.

Cơn đau tim ập đến khiến ông ngã quỵ. Hòa luống cuống gọi xe cấp cứu.

Trong phòng cấp cứu, ông Tư thấy mình bơi trong vũng sáng trắng xóa. Hình ảnh bà Tư hiện ra.

- Anh phải sống... - Giọng bà vang lên từ rất xa.

Khi tỉnh dậy, ông thấy Hòa đang cầm bức ảnh gia đình chụp năm anh tốt nghiệp cấp ba - lần cuối cùng họ chụp ảnh cùng nhau.

Ánh đèn neon rọi xuống gương mặt Hòa lấm tấm mồ hôi, những vết chân chim quanh mắt anh giờ sâu hoắm như rãnh nứt.

- Con đã sai... - Hòa thều thào, tay siết chặt bản phác thảo “Gác nhỏ” đến nỗi các ngón tay trắng bệch.

Những trang giấy phác thảo chi tiết đến kinh ngạc: Những vết nứt hình sao trên kính cửa sổ, từng đường vân gỗ trên sàn nhà và cả chiếc lồng chim cũ.

Anh rút từ túi áo ra chiếc USB, giọng khản đặc:

- Con scan từng milimet căn nhà, con sẽ sửa lại nó cho chắc chắn hơn, nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng....

Trên màn hình máy tính, anh cho ông Tư xem hình ảnh 3D xoay chậm hiện lên nội thất nhà cũ, từ góc khuất tủ gỗ mối ăn đến vết mực tím bé xíu Hòa vẽ nguệch ngoạc lúc bảy tuổi.

Ông Tư chợt nhận ra mùi cam thảo - thứ hương vợ mình từng dùng chữa ho cho Hòa thuở nhỏ - phảng phất từ chiếc khăn tay anh vo tròn trong tay. Hòa lật giở trang cuối tập bản thảo: Bức phác họa ông đang ngủ say với đôi chân mày nhíu lại.

- Con hiểu rồi... nhà không phải bốn bức tường... - Giọng anh nghẹn lại.

Ông Tư đưa tay run rẩy chạm vào tóc Hòa. Trong khoảnh khắc ấy, hơi thở của hai người đàn ông hòa làm một, như tiếng thở của ngôi nhà cũ đang dần lành lại những vết nứt.

Chiếc gác cũ khoác lên mình tấm áo mới từ những nét vẽ - mỗi đường nét chằng chịt như mạch máu hàn gắn những vết thương thời gian. Ông Tư đứng lặng giữa căn phòng, bàn tay sần sùi run rẩy chạm vào bức tường phía Đông đang thở bằng nhịp sáng tối của ký ức.

Dưới tán khế trổ hoa trắng xóa, ông khẽ cúi đầu trước bức ảnh gia đình đã được Hòa phục chế tỉ mỉ. Mùi mực vẽ quyện với hương cam thảo khiến lồng ngực ông se thắt - đó là mùi của những đêm dài vợ ông thức trắng chăm ông khi ông ốm.

Tiếng chim sâu ríu rít phát ra từ chùm khế non khiến ông giật mình. My chỉ vào chú chim nhỏ đang nhảy nhót trên cây, nụ cười trong veo của cháu gái xóa tan khoảng lặng.

- Ông ơi, chim trở về rồi kìa!

Giọng My vang lên như tiếng chuông đồng vọng từ quá khứ, khiến hai hàng nước mắt nóng hổi bất ngờ lăn trên gò má ông. Ông quay mặt đi, tay vội vã lau vệt lệ bằng ống tay áo cũ kỹ. Mùi sơn dầu từ bức tranh “Chiếc lồng mở” Hòa đang vẽ dở bỗng trở nên cay xè, ông hít sâu mùi hương ấy như nuốt vào lòng sự xót xa.

Bức họa chân dung bà Tư được chấm từ 7.200 nét mực - mỗi chấm nhỏ như chạm vào trái tim ông. Ông đếm thầm từng nét chấm, tưởng tượng ra những đêm dài Hòa ngồi lặng trước giá vẽ, những giọt mồ hôi thấm vào trang giấy. Dòng đề tặng khiến ngực ông đau nhói, bàn tay run run bật thốt:

- Con trai..., giọng ông khàn đặc vỡ tan trong không gian.

Gió mang theo hương hoa từ những gốc cây mới trồng ùa vào phòng, len qua kẽ lá khế dưới nắng mai. Ông Tư nhắm mắt hít đầy lồng ngực mùi hương ngọt ngào ấy, cảm giác nghẹn ứ trong cổ họng bỗng hóa thành dòng suối ấm chảy dọc sống lưng.

Tay ông vuốt nhẹ thành ghế gỗ, những đường rãnh khắc tỉ mỉ dưới lòng bàn tay chợt trở nên sống động - mỗi vết khắc như mở ra cánh cửa thời gian: Hình ảnh ông ngồi thẫn thờ đếm bóng tối sau tang lễ vợ, tiếng tích tắc đồng hồ vang lên như nhịp tim cô độc. Đột nhiên, tiếng Hòa vọng lên:

- Ba ơi, con làm được rồi!

Giọng nói ấm áp đầy phấn khích đó khiến trái tim ông thắt lại, bước chân vội vã xuống cầu thang như đứa trẻ sợ lỡ mất khoảnh khắc.

Chiếc bình gốm Raku vẽ tự nhiên tỏa hơi ấm trong lòng bàn tay ông, những mảnh kính màu từ khung ảnh gia đình lấp lánh như sao trời. Ông Tư cúi mặt, nước mắt rơi xuống hình vợ được khắc trên chiếc bình tạo thành vệt sáng long lanh.

- Mẹ con..., giọng ông nghẹn lại thành tiếng nấc, đôi vai gầy guộc rung lên theo từng cơn xúc động.

Hơi ấm từ chiếc bình lan tỏa khắp ngực, xóa tan lớp băng giá tích tụ trong lòng ông. Những tia sáng lấp lánh phản chiếu lên đôi mắt đỏ hoe của ông, như vũ trụ thu nhỏ đang hát ca.

Tiếng cười My vang lên ngoài vườn, ông Tư quay sang nhìn cháu gái đang chăm chú quay những chú chim non. Bàn tay ông khẽ nắm lấy tay Hòa - bàn tay nghệ sĩ giờ đầy vết chai sần nhưng ấm áp lạ thường. Trong khoảnh khắc ấy, căn gác nhỏ không còn là nấm mồ của ký ức đau thương, mà trở thành bản giao hưởng của sự hồi sinh, nơi mỗi vết sẹo được nâng niu như viên ngọc quý giữa biển người mênh mông.

Trên gác nhỏ, chiếc lồng chim cũ rung lên theo từng bước chuyền của chú chim đã trở về…

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/truyen-ngan-chiec-long-chim-tren-gac-nho-post760345.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/truyen-ngan-chiec-long-chim-tren-gac-nho-post760345.html
Bài liên quan
Truyện ngắn: Xứng đôi
Gọi 'bạn' do đi chăn bò chung, chứ khi tôi học lớp 3, tấp tểnh bắt đầu khởi nghiệp vác roi thì nàng đã chẵn tuổi mười lăm.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Truyện ngắn: Chiếc lồng chim trên gác nhỏ