Sau khi hỏi kỹ mọi chi tiết, cha Nisso đã gọi cậu bé Yunoske đang ngồi bên lò sưởi và đưa cậu đến với người mẹ mà cậu chưa biết mặt qua 5 năm xa cách. Tất nhiên là cha đạo đã hiểu rằng người phụ nữ không nói dối.
Cầm tay bé Yunoske, chị cố nén tiếng khóc, còn cha đạo có tấm lòng cao cả thì mỉm cười trong nước mắt. Những gì diễn ra sau đó thì không cần nói chắc hẳn ông cũng đoán biết. Cậu bé Yunoske đã cùng với mẹ đi về Yokohama.
Sau khi chồng và đứa con trai út chết đi, theo đề nghị của vợ chồng người chủ cửa hiệu tốt bụng, người mẹ đã mở lớp dạy cắt may cho mọi người và có thể kiếm sống bằng nghề này tuy khiêm nhường nhưng không còn phải chịu nhọc nhằn.
*
* *
Sau khi kể xong câu chuyện dài, người khách thăm đền nâng chén trà lên trước mặt. Nhưng anh ta không nhấp môi vào đó mà liếc nhìn sang tôi và nói khẽ:
- Đứa trẻ bị bỏ rơi đó chính là tôi.
Tôi im lặng gật đầu và rót nước vào ấm trà. Câu chuyện bi thương về đứa trẻ bị bỏ rơi chính là chuyện về thời thơ ấu của vị khách Masubar Yunoske của tôi. Thậm chí trước đó tôi cũng đã đoán ngay ra đó là anh ta, mặc dù chỉ mới gặp lần đầu. Sau một lúc im lặng tôi hỏi vị khách:
- Người mẹ của anh vẫn còn khỏe mạnh chứ?
Và tôi nhận được câu trả lời bất ngờ:
- Không, bà đã qua đời cách đây một năm rồi. Nhưng mà… người phụ nữ mà tôi đã kể với ông không phải là mẹ tôi.
Nhìn vẻ kinh ngạc của tôi, người khách nheo mắt mỉm cười:
- Chuyện người chồng của bà có cửa hàng gạo ở Tavara-mati tại Asakusa và ông ấy đến Yokohama làm việc đều là sự thật. Nhưng sau đó tôi được biết việc họ đã bỏ rơi đứa con lại là chuyện bịa. Một năm trước khi mẹ mất, tôi đã làm việc ở cửa hiệu.
Ông biết đấy, tôi buôn sợi bông nên đã đi khắp các vùng lân cận Niigata. Có một lần tôi ngồi cùng toa tàu với một nhà buôn bao bì trước đây từng sống cạnh ngôi nhà của mẹ tôi ở phố Tavaramaati. Không cần tôi phải dò hỏi, ông ấy kể rằng bà đã sinh được một cô con gái và cô bé đã chết trước khi cửa hiệu bị đóng cửa.
Minh họa/INT. |
Sau khi từ Yokohama trở về, tôi đã lén xem cuốn hộ tịch gia đình và hóa ra đúng như lời nhà buôn kia nói, khi còn sống ở Tawara-mati mẹ có sinh được một cô con gái và cô bé đã chết khi mới được 3 tháng tuổi.
Mẹ đã tưởng tượng ra câu chuyện đó để nhận tôi về chứ tôi không phải là con trai bà - mẹ đã nghĩ ra câu chuyện về một đứa con trai bị bỏ rơi. Rồi suốt hơn 20 năm sau đó, bà đã chăm sóc tôi đến quên ăn quên ngủ. Về chuyện tôi bị bỏ lại ở đền thờ thì có lẽ bà biết được từ các con chiên đến nghe giảng đạo, hoặc chính người gác cổng đền đã kể cho bà nghe.
Vị khách của tôi lặng thinh, rồi như sực tỉnh, anh ta lại uống trà với vẻ đăm chiêu.
- Thế anh có kể với bà mẹ rằng anh không phải là con đẻ của bà, rằng anh đã biết được điều đó không? - Tôi đã không thể kìm được câu hỏi đó.
- Không, tôi đã không nói. Điều đó là quá tàn nhẫn đối với mẹ. Và cho đến tận khi qua đời mẹ cũng không nói với tôi một lời nào về điều này. Chắc hẳn mẹ cũng nghĩ rằng nói ra sẽ là tàn nhẫn đối với tôi. Và trên thực tế thì tình cảm của tôi đối với mẹ cũng có thay đổi chút ít, sau khi tôi được biết mình không phải là con đẻ của bà.
- Nghĩa là sao? - Tôi nhìn chăm chăm vào đôi mắt vị khách.
Tình cảm đó đã trở nên ấm áp hơn cả trước đây. Bởi vì cho đến khi biết được tất cả mọi chuyện thì đối với tôi, một đứa con bị bỏ rơi, bà còn hơn cả một người mẹ - vị khách nhẹ nhàng trả lời, dường như hơn hết thảy, anh chính là đứa con trai của bà vậy.