Vấn đề cơ bản là chúng ta cần giải quyết mối quan hệ cân bằng giữa hai cơ chế để phát huy tốt nhất các cơ hội mà hội nhập đem lại. Nhìn lại thời gian qua, có thể thấy cách làm của Việt Nam một mặt ưu tiên hợp tác quốc tế về giáo dục, mặt khác chủ động, tích cực tham gia thương mại dịch vụ giáo dục. Nhờ thế, chúng ta đạt được những kết quả tích cực như nêu trên. Dĩ nhiên, nếu xét về hiệu quả thì có nhiều vấn đề cần nhận dạng đầy đủ.
Trên từng phương thức hội nhập quốc tế, cũng có những vấn đề cần cảnh báo. Cụ thể, trong cung ứng xuyên biên giới là việc đào tạo theo các chương trình qua mạng đang diễn ra tự phát, chưa có quy định pháp lý. Trong du học là hiện tượng chảy máu chất xám, chảy ngoại tệ, chất lượng khó kiểm soát. Trong hiện diện thương mại là sự hình thành và phát triển thị trường giáo dục với những mặt trái. Trong hiện diện thể nhân là những vấn đề nảy sinh về an ninh, an toàn và việc làm khi nước ta mở cửa đón các nhà giáo dục nước ngoài theo cơ chế thương mại.
Có thể nói, chúng ta đã có bước phát triển tốt về hội nhập quốc tế theo chiều rộng. Tuy nhiên, xét về chiều sâu cần nhận dạng và đánh giá nghiêm túc những vấn đề được cảnh báo nêu trên để bảo đảm hội nhập quốc tế về giáo dục, thực sự góp phần nâng cao mức độ công nhận của quốc tế đối với bằng cấp, chất lượng đào tạo, nguồn nhân lực của Việt Nam.
Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục ASEAN+3 lần thứ 5, diễn ra theo hình thức trực tuyến. Ảnh: BTC Hội nghị cung cấp |
- Cho đến nay, cơ hội và thách thức mà hội nhập quốc tế đem lại đối với giáo dục Việt Nam như thế nào, theo ông?
- Các thách thức và cơ hội của tiến trình hội nhập quốc tế về giáo dục đã phân tích nhiều trong các diễn đàn, hội thảo và tài liệu nghiên cứu, quốc tế cũng như trong nước. Tựu trung cơ hội ở chỗ, chúng ta sẽ khai thác tốt hơn các nguồn lực nước ngoài (bao gồm: Tài chính, con người, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm). Thách thức chủ yếu ở sự phát triển của thị trường giáo dục mà kéo theo nó là các hiện tượng gian lận thương mại, bằng cấp giả, chất lượng không tin cậy, mất công bằng xã hội, xâm nhập văn hóa, đảo lộn giá trị…
Cho đến nay, thách thức về thị trường giáo dục càng trở nên phức tạp và khó lường khi giáo dục thế giới đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với việc đẩy mạnh giáo dục mở, giáo dục số. Các phương thức cung ứng giáo dục xuyên biên giới nêu trên giờ đây có thể hoàn toàn thực hiện trên mạng Internet với sự hình thành của các kho tài nguyên giáo dục mở (OER), các khóa học trực tuyến mở đại chúng (MOOC).
Thách thức còn ở chỗ giáo dục mở đang diễn tiến theo mô hình trung tâm - ngoại vi. Nghĩa là, ở trung tâm là các đại học lớn các nước phát triển, ngoại vi là các đại học những nước đang phát triển. Trung tâm đóng vai trò chi phối và dẫn dắt. Vì thế có nguy cơ dẫn tới một thứ chủ nghĩa thực dân mới, tức là tri thức tạo ra trong bối cảnh kinh tế - xã hội của các nước phát triển áp đặt vào các nước đang phát triển với những ưu tiên kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa khác biệt.
Đây là thách thức đã cảnh báo ở những nước đang phát triển khi tiến trình quốc tế hóa giáo dục không dừng ở giáo dục truyền thống mà bao gồm giáo dục mở, giáo dục số. Thách thức này thêm cấp thiết khi ChatGPT nói riêng, trí tuệ nhân tạo nói chung, đang đặt ra những hiểm họa tiềm tàng trong hội nhập.
- Ông có thể chia sẻ một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong giáo dục đối với Việt Nam?
- Đã có một số nghiên cứu giải pháp về vấn đề này. Chẳng hạn, cuối năm 2020, Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục Việt Nam”, thuộc Chương trình Khoa học Giáo dục cấp quốc gia đã có những kiến nghị:
Phân bổ ngân sách đầu tư mang tính đột phá cho hệ thống giáo dục đại học (hiện thấp gần nhất so với khu vực); tiếp tục thu hút FDI lĩnh vực giáo dục đại học thông qua khuyến khích mở các chi nhánh giáo dục quốc tế; phát triển trung tâm giáo dục quốc tế; thiết kế chính sách khuyến khích hệ thống giáo dục Việt Nam tham gia các kiểm định khu vực và quốc tế; định hướng hệ thống đại học tham gia xếp hạng trong nước và quốc tế phù hợp; tăng cường sự di chuyển của sinh viên, giảng viên và học giả quốc tế; xây dựng các đại học tầm cỡ thế giới; xây dựng bộ tiêu chí xếp hạng đại học trong nước.
Thực ra, những giải pháp cơ bản đã chỉ ra trong hai văn bản quan trọng. Một là Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020 theo QĐ 2448 ngày 16/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Hai là Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo QĐ 40 ngày 7/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm hội nhập kinh tế; chính trị, quốc phòng, an ninh; văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, đến nay chưa có bất kỳ đánh giá nào về thực hiện hội nhập quốc tế về giáo dục theo các văn bản trên. Vì vậy, tôi cho rằng giải pháp quan trọng nhất lúc này là khẩn trương tổ chức đánh giá việc thực hiện Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục trong mối quan hệ nhất quán với Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020. Chỉ khi đó mới có cơ sở thực tiễn tin cậy để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về giáo dục của Việt Nam.
Riêng trong phạm vi của phỏng vấn này, tôi cho rằng giải pháp ưu tiên là tăng cường quản lý thị trường giáo dục được hình thành từ tiến trình hội nhập quốc tế. Mục đích của giải pháp nhằm nhận dạng đầy đủ và khắc phục các thách thức, hạn chế, tồn tại nêu trên, qua đó bảo đảm chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội trong hội nhập quốc tế về giáo dục.
- Trân trọng cảm ơn ông!
“Trên từng phương thức hội nhập quốc tế, cũng có những vấn đề cần cảnh báo. Cụ thể, trong cung ứng xuyên biên giới là việc đào tạo theo các chương trình qua mạng đang diễn ra tự phát, chưa có quy định pháp lý. Trong du học là hiện tượng chảy máu chất xám, chảy ngoại tệ, chất lượng khó kiểm soát. Trong hiện diện thương mại là sự hình thành và phát triển thị trường giáo dục với những mặt trái”.