80 năm giáo dục Việt Nam: Những bước tiến đáng tự hào

M.Phong - H.Nguyễn 02/09/2025 23:22

Với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lịch sử dân tộc đã sang trang mới và giáo dục cũng khởi đầu một cuộc cách mạng vĩ đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một lớp học của phong trào Bình dân học vụ. Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một lớp học của phong trào Bình dân học vụ. Ảnh tư liệu

Hành trình 80 năm của nền giáo dục Việt Nam là chuỗi các cuộc chuyển mình, gắn liền với các mốc lịch sử quan trọng và các cuộc cải cách mang tính bước ngoặt.

Những mốc son và cuộc cải cách lịch sử

NGND.TS Đặng Huỳnh Mai - nguyên Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nhận định: Trải qua 80 năm kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, giáo dục và đào tạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một trong những thành tựu vĩ đại nhất là xóa bỏ nạn mù chữ. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, với 95% dân số mù chữ, phong trào “Bình dân học vụ” đã được phát động rộng rãi, nhanh chóng giúp hàng triệu người biết đọc, viết. Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội học tập.

Hai là, thực hiện thành công chương trình phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Điều này đã nâng cao trình độ dân trí, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước. Hệ thống trường lớp phát triển nhanh chóng, phủ khắp từ thành thị đến nông thôn, miền núi, vùng sâu, xa, đảm bảo quyền được học tập cho mọi người dân.

Ba là chất lượng giáo dục và đào tạo từng bước được nâng cao. Việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã được thực hiện từ năm 2013. Các chính sách luôn tập trung vào đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, đánh giá, hướng tới phát triển năng lực và phẩm chất người học.

Ngày càng chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Nhiều cơ sở giáo dục đã chủ động trong việc đổi mới, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp.

Bốn là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Trình độ của giáo viên ngày càng được nâng cao. Nhiều chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực được triển khai. Sự tận tụy, tâm huyết của đội ngũ giáo viên là yếu tố then chốt cho những thành tựu của ngành.

Đặc biệt, mới đây, Bộ GD&ĐT đã tham mưu trình Quốc hội thông qua Luật Nhà giáo, góp phần đặc biệt quan trọng cho việc đảm bảo chính sách của Nhà nước về phát triển đội ngũ nhà giáo nước ta.

Năm là giáo dục Việt Nam luôn quan tâm đến việc đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với các đối tượng yếu thế như người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, người khuyết tật và các đối tượng chính sách. Nhiều chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đã được triển khai, giúp họ có cơ hội học tập.

Sáu là giáo dục nước ta đã chủ động hội nhập quốc tế, thu hút các chương trình đào tạo tiên tiến, trao đổi sinh viên, giảng viên. Vị thế của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế từng bước được cải thiện, được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao.

Với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện và sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước cùng tư tưởng Hồ Chí Minh là “đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau”, giáo dục Việt Nam có lẽ còn phải tiếp tục nỗ lực để vượt qua những thách thức, hướng tới mục tiêu xây dựng nền giáo dục chất lượng cao, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của thời đại.

Nhất là khi Nhà nước ta miễn học phí cho học sinh thì yêu cầu về nguồn nhân lực cũng như chất lượng dạy học và giáo dục thế hệ trẻ phải được đáp ứng yêu cầu cao trên nền tảng của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, NGND.TS Đặng Huỳnh Mai chia sẻ.

80-nam-giao-duc-viet-nam-3.jpg
Lớp bổ túc văn hóa của cán bộ huyện Quế Phong, Nghệ An (1967). Ảnh: Sở GD&ĐT Nghệ An

Dấu ấn công cuộc đổi mới giáo dục đại học

Chia sẻ về 80 năm giáo dục cách mạng Việt Nam, ông Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học đặc biệt nhắc đến thời kỳ 1987 - 1997 với vai trò khai phá, đặt nền móng cho công cuộc đổi mới giáo dục đại học ở nước ta cho tới nay. “Ngành Giáo dục hoàn toàn có quyền tự hào về những gì giáo dục đại học đã làm được dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng, Giáo sư Trần Hồng Quân ở thời kỳ này”, ông Lê Viết Khuyến nhận định.

Là người được tham gia từ sớm vào công cuộc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Hồng Quân, lúc đó là Bộ trưởng Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, ông Lê Viết Khuyến nhớ lại:

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học và chuyên nghiệp là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Chỉ tiêu đào tạo của các trường bị cắt giảm, thậm chí cắt hoàn toàn; nhiều trường đứng trước nguy cơ không có tiền lương chi trả cho đội ngũ giảng viên, không có người học.

Sinh viên tốt nghiệp, dù số lượng ít nhưng khó được phân công công tác. Đời sống giảng viên khó khăn mọi bề. Cơ sở vật chất của nhà trường xuống cấp nghiêm trọng… Kết quả, nhiều cơ sở giáo dục đại học và chuyên nghiệp bị đóng cửa hoặc hoạt động thoi thóp.

Khi giáo dục đại học và chuyên nghiệp Việt Nam đứng trên bờ vực thẳm thì cơ hội mở ra với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Dưới ánh sáng của Nghị quyết này và nhiều nghị quyết sau đó, hệ thống giáo dục đại học nước ta đã triển khai nhiều đổi mới bứt phá mạnh mẽ, thoát khỏi khủng hoảng, trì trệ, tạo dựng nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề phát triển hệ thống giáo dục đại học sau này. Một số thành tựu nổi trội nhất ở thời kỳ này có thể nói đến như:

Chuyển đổi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam từ mô hình Liên Xô cũ (chỉ thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung) qua mô hình mới, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, hội nhập quốc tế. Theo Nghị định 90-CP của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu khung hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng (11/1993), ở bậc giáo dục đại học có 4 trình độ: Cao đẳng (3 năm), cử nhân (4 năm trở lên), thạc sĩ và tiến sĩ.

Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo đại học. Cấu trúc lại nội dung đào tạo ở bậc đại học theo mô hình giáo dục đại học khai phóng. Triển khai quy trình đào tạo mới (đào tạo cấp đại học theo 2 giai đoạn) và 7 chương trình giáo dục đại học đại cương.

Việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng cũng được tiến hành trong giai đoạn này. Theo đó, chấp hành Chỉ thị 287/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ GD&ĐT chủ trương bố trí lại mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo hướng hình thành ba loại trường cơ bản: Viện đại học đa lĩnh vực, trường đại học/cao đẳng chuyên ngành và trường cao đẳng cộng đồng/đại học địa phương.

Tập trung xây dựng một số trung tâm chất lượng cao (trường, ngành học) ngang tầm với trình độ cao trong khu vực, làm thí điểm, tạo tiền đề mở rộng số lượng những trường, ngành học có chất lượng cao.

Chuyển các trường trung học chuyên nghiệp đủ điều kiện lên cao đẳng, đặt tiền đề cho sự phân luồng sinh viên ở bậc giáo dục đại học. Những thay đổi chính sách về đào tạo sư phạm, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên và giải quyết bài toán khó về đáp ứng nhu cầu giáo viên cho hệ thống giáo dục phổ thông cũng là thành tựu nổi trội trong giai đoạn 1987 - 1997.

Ngoài ra, một dấu ấn quan trọng phải nhắc tới trong giai đoạn này là việc đặt nền móng hình thành hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập. Nghị quyết TW4 khóa 7 (1993) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã công nhận sự tồn tại của các loại trường đại học dân lập, bán công và tư thục mà trước đây chưa hề có tại Việt Nam, với ý định hệ thống trường này sẽ bổ sung cho hệ thống đại học công lập đang có nhằm thỏa mãn yêu cầu quá cao của nhân dân về chỗ học.

Trong nhiệm kỳ của Bộ trưởng Trần Hồng Quân, các quy chế đầu tiên về các loại hình trường đại học dân lập, bán công và tư thục đã lần lượt được xây dựng và ban hành, tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt trường đại học ngoài công lập. Các trường trực thuộc tập đoàn kinh tế lớn Nhà nước cũng ra đời lần đầu tiên theo chỉ đạo của Bộ trưởng Trần Hồng Quân.

Nói về giáo dục đại học thời kỳ 1987 - 1997, ông Lê Viết Khuyến cũng nhắc đến thành tựu về duy trì và mở rộng quy mô đào tạo đại học; triển khai quá trình dân chủ hóa trong sinh hoạt nhà trường, tăng cường quyền tự chủ của các trường về mặt quản lý.

“Việc triển khai bầu Hiệu trưởng thực hiện ngay từ những năm đầu đổi mới được coi là sự thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc nhất trong các hoạt động nhà trường. Đi kèm là chủ trương xóa bỏ việc bổ nhiệm thủ trưởng không thời hạn, thực hiện nhiệm kỳ hóa chức vụ Hiệu trưởng với việc giới hạn tối đa giữ chức vụ để tạo điều kiện cho lớp trẻ năng động, sáng tạo kế thừa và nối tiếp nhau tham gia quản lý nhà trường.

Việc lựa chọn Hiệu trưởng do quần chúng quyết định trong quá trình khảo sát, cân nhắc của cử tri. Cán bộ quản lý trong trường sẽ dần chuyển sang hưởng chế độ phụ cấp và mọi cán bộ quản lý chủ chốt của nhà trường hưởng thang lương chuyên môn. Một số không ít trường sau khi bầu đã có những thay đổi sâu sắc và toàn diện được xã hội thừa nhận” - chia sẻ điều này, ông Lê Viết Khuyến lần nữa khẳng định: Thời kỳ 1987 - 1997 thực sự đóng vai trò khai phá, đặt nền móng cho công cuộc đổi mới giáo dục đại học ở nước ta cho tới nay.

80-nam-giao-duc-viet-nam-1.jpg
Đón học sinh vào lớp Một, năm học 2025 - 2026 của Trường Tiểu học Vĩnh Tuy (Vĩnh Hưng, Hà Nội). Ảnh: TG

Không ngừng tăng chất và lượng

Năm 1945, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn, hơn 90% dân số mù chữ. PGS.TS Nguyễn Quốc Bảo - giảng viên cao cấp, nguyên Trưởng khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) nhận thấy, trong bối cảnh đó, Chính phủ xác định xóa nạn mù chữ và chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách. Do đó, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền giáo dục mới, trước hết là xóa nạn mù chữ cho người dân.

Giai đoạn 1945 - 1954, giáo dục chuyển hướng thành “giáo dục kháng chiến”, lớp học được mở ở chiến khu, chương trình gắn với thực tiễn kháng chiến, đào tạo thế hệ “công dân kháng chiến”. Đến năm 1954 - 1975, giáo dục miền Bắc được cải cách toàn diện theo hướng xã hội chủ nghĩa, coi trọng nguyên lý “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền thực tiễn”. Dù chiến tranh ác liệt, trường lớp vẫn duy trì ổn định, phong trào “Hai tốt” lan tỏa, hệ thống đại học phát triển nhanh.

Ngày nay, giáo dục và đào tạo phát triển mạnh, không ngừng tăng cả chất và lượng. Trong đổi mới đã xuất hiện những mô hình mới cùng hướng tới mục tiêu đào tạo. Các em trong độ tuổi được phổ cập THCS. Hầu hết thanh niên học hết THPT. Có gần 400 trường đại học và cao đẳng với hàng triệu sinh viên, hàng nghìn thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư.

Có thể nói, trình độ dân trí có bước phát triển vượt bậc. Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề dài hạn phát triển mạnh, thu hút đông đảo học sinh, thanh niên lao động ở nông thôn, các dân tộc thiểu số, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo.

Một nền giáo dục hiện đại, có chất lượng, phát triển vững mạnh sẽ mang lại cho quốc gia đội ngũ giàu tri thức, là động lực lớn thúc đẩy quốc gia đó tiến bộ và phát triển không ngừng. Cuộc chạy đua hiện nay giữa các quốc gia trên thế giới về kinh tế thực chất là cuộc chạy đua về khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đó còn là chạy đua nâng cao chất lượng nguồn năng lực.

Đặc biệt, trong xu thế hội nhập toàn cầu, cùng sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, việc phát huy vai trò quan trọng hàng đầu của giáo dục, đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền vững mọi dân tộc, trong đó có Việt Nam càng trở nên bức thiết.

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta hết sức quan tâm, chăm lo đến công tác giáo dục và đào tạo, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chú trọng đào tạo con người theo hướng công dân toàn cầu. “Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã thể hiện rõ vai trò của mình đối với việc phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường, yêu cầu phát triển đất nước”, PGS.TS Nguyễn Quốc Bảo nhấn mạnh.

Ghi nhận hệ thống giáo dục ở nước ta khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến sau đại học, bà Châu Quỳnh Dao - đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang khẳng định, hầu hết bản, làng, xã, phường đều có trường, lớp. Về cơ bản, hệ thống giáo dục ở nước ta đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Đến nay, đa số người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường. Qua đó cho thấy, sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đồng thời sự nỗ lực to lớn của toàn dân đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của nước nhà.

“Những năm tới, ngành Giáo dục tiếp tục đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cố gắng nỗ lực của ngành, chăm lo cho toàn dân, tôi tin sự nghiệp giáo dục, đào tạo của nước ta sẽ kế thừa và phát huy được những thành tựu của 80 năm; sớm khắc phục những khuyết điểm tồn tại, để gặt hái nhiều thành công hơn nữa trong sự nghiệp “trồng người” để đồng hành cùng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

80-nam-gd1.jpg
Giáo viên Trường THPT Quang Trung (Đống Đa, Hà Nội) tập huấn sử dụng trí tuệ nhân tạo. Ảnh: NTCC

Tạo nền móng cho phát triển trong thế kỷ mới

Một trong những nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tham gia viết sách “80 năm Giáo dục Việt Nam”, các chuyên gia Đào Văn Toàn, Dương Quang Ngọc, Hà Thị Thúy, Phan Thị Thu, Nguyễn Thị Việt Hà - nhận định: Giai đoạn 1986 - 2000 là chặng đường lịch sử có nhiều biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và giáo dục Việt Nam.

Từ trong khủng hoảng, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã đưa đất nước vượt qua khó khăn, hồi phục và phát triển nhanh chóng, tạo nền móng cho sự phát triển trong thế kỷ mới. Gắn liền với tiến trình đổi mới của đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực đổi mới, không chỉ vượt qua khủng hoảng mà còn có những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò ngày càng lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã chỉ ra những yếu kém và đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, coi giáo dục là bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đổi mới chung. Đại hội cũng xác định phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở đường cho xã hội hóa giáo dục.

Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI (1989) đề ra chủ trương đa dạng hóa hình thức đào tạo và huy động nguồn lực xã hội, mở rộng các loại hình trường lớp ngoài công lập. Cơ chế tài chính giáo dục dần chuyển từ “nhà nước bao cấp toàn bộ” sang mô hình huy động nhiều nguồn, cho phép thu học phí.

Đến Đại hội lần VII của Đảng (1991), đường lối đổi mới giáo dục được khẳng định ở tầm cao mới: Giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” với nhiệm vụ “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Tiếp tục đường lối đó, Đại hội Đảng VIII (1996) và Nghị quyết TW 2 khóa 8 (1996), xác định rõ phương hướng phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời khẳng định việc xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và các hình thức đào tạo.

Các chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thông qua các luật như: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), đặc biệt là Luật Giáo dục (1998), tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ và minh bạch cho toàn bộ hệ thống.

Trong giai đoạn 1996 - 2000, giáo dục chuyển trọng tâm từ việc giải quyết các vấn đề cơ bản sang nâng cao chất lượng nhân lực, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô học sinh, sinh viên tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt ở bậc đại học. Trọng tâm phổ cập được chuyển từ tiểu học sang THCS, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước.

Nhấn mạnh về những thành tựu đạt được, ông Dương Quang Ngọc chia sẻ, trong giai đoạn 1986 - 2000, hệ thống giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu mang tính nền tảng: Thứ nhất, khung pháp lý và thể chế giáo dục từng bước được hoàn thiện. Đây là thành tựu nền tảng, với việc ban hành các văn bản luật quan trọng như: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và đỉnh cao là Luật Giáo dục (1998). Các văn bản này đã chuyển nền giáo dục từ chỗ vận hành dựa trên chỉ thị sang hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch.

Thứ hai, Hệ thống giáo dục quốc dân được tái cấu trúc và phát triển đồng bộ. Hệ thống giáo dục được tái cơ cấu một cách mạnh mẽ, từ việc thống nhất bộ máy quản lý (thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo), chuẩn hóa hệ phổ thông 12 năm, đến việc hình thành một cấu trúc liên thông từ mầm non đến sau đại học.

Thứ ba, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ vào năm 2000, triển khai phổ cập giáo dục THCS.

Thứ tư, cơ sở vật chất và môi trường giáo dục từng bước được hiện đại hóa. Thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia như: Kiên cố hóa trường lớp, hàng vạn phòng học tạm bợ đã được thay thế bằng các công trình kiên cố. Qua đó, góp phần cải thiện đáng kể điều kiện dạy và học, đặc biệt ở vùng khó khăn.

Thứ năm, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng như: Đội ngũ nhà giáo đã tăng mạnh về số lượng để đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô. Chất lượng từng bước nâng lên thông qua các chương trình chuẩn hóa, đời sống giáo viên dần được cải thiện nhờ các chính sách mới.

Thứ sáu, thành công trong xã hội hóa giáo dục và đa dạng hóa loại hình và hình thức giáo dục. Chủ trương xã hội hóa đã phá vỡ thế độc quyền của hệ thống trường công, cho phép các loại hình trường dân lập, tư thục, bán công ra đời và phát triển. Điều này đã huy động được nguồn lực xã hội to lớn và tạo ra một môi trường giáo dục năng động, đa dạng hơn. Mặt khác, các phương thức đào tạo được mở rộng theo hướng linh hoạt, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực như đào tạo từ xa…

Thứ bảy, bước đầu đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục: Ngành đã có những chuyển biến bước đầu trong việc đổi mới chương trình theo hướng “cơ bản, hiện đại, thiết thực”, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm.

Thứ tám, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục: Trong bối cảnh đất nước mở cửa, ngành Giáo dục đã chủ động mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế (WB, UNESCO, UNICEF...), thu hút nguồn lực tài chính và kỹ thuật quan trọng cho sự phát triển.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy, giai đoạn 1986 - 2000, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực vượt qua khủng hoảng, hồi phục và phát triển, đạt được những thành tựu lớn. Dù còn có những hạn chế, khó khăn nhưng những thành tựu đạt được trong việc mở rộng quy mô, hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình, hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề vững chắc để ngành Giáo dục Việt Nam tiếp tục thực hiện những cuộc đổi mới toàn diện hơn trong thế kỷ XXI.

80 năm qua, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, NGND.TS Đặng Huỳnh Mai nhận thấy, ngành Giáo dục có thể đối mặt với không ít thách thức như: Sự mất cân đối về chất lượng giữa các vùng miền, vấn đề phân luồng học sinh sau THCS, chất lượng đào tạo đại học chưa đồng đều, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở một số ngành nghề.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/80-nam-giao-duc-viet-nam-nhung-buoc-tien-dang-tu-hao-post746714.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/80-nam-giao-duc-viet-nam-nhung-buoc-tien-dang-tu-hao-post746714.html
Bài liên quan
Dấu son 80 năm giáo dục Việt Nam
Từ năm 1945 - 2025, giáo dục Việt Nam trải qua 80 năm phát triển với những dấu mốc đáng nhớ và nhiều thành tựu lịch sử.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
80 năm giáo dục Việt Nam: Những bước tiến đáng tự hào