Chủ trương này nằm trong mục tiêu đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giáo dục và đào tạo.
Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị yêu cầu phải mở rộng, đa dạng hoá và làm sâu sắc hơn các cơ chế hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trong đó, cơ chế hợp tác quốc tế cần đặt ra ở cả hai chiều. Một mặt, giáo dục - đào tạo phải tham gia các tổ chức bảo đảm chất lượng, phát triển giáo dục quốc tế; cấp học bổng hoặc có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học sinh, sinh viên, giảng viên đi học tập, nghiên cứu, thỉnh giảng ở các nước phát triển.
Một mặt, các cơ sở giáo dục Việt Nam cần được khuyến khích, hỗ trợ thành lập phân hiệu, mở văn phòng đại diện hoặc triển khai chương trình giáo dục ở nước ngoài, cũng như đẩy mạnh hợp tác, mở rộng giảng dạy tiếng Việt tại nước ngoài, nhất là trong cộng đồng người Việt Nam.
Các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho trường đại học cần hoàn thiện để thúc đẩy hợp tác, liên kết với các đại học có uy tín, doanh nghiệp lớn ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực trọng điểm, công nghệ mới nổi.
Bộ Chính trị khuyến khích hợp tác, liên kết đào tạo theo mô hình giáo dục số, xuyên biên giới, đồng thời tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong hệ thống giáo dục quốc dân phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
Mục tiêu từ nay đến năm 2035, các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng.
Đáng chú ý, Bộ Chính trị đặt ra nhiệm vụ tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài; tăng bình quân 12%/năm đối với số công bố khoa học quốc tế, nguồn thu từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; 16%/năm đối với số đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế; phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, và ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới.