Theo Russia Beyond, xe tải Mỹ có số lượng nhiều nhất (khoảng 200.000 chiếc) và phổ biến nhất trong Hồng quân Liên Xô là loại xe Studebaker.
Những chiếc xe này được sử dụng để kéo pháo cỡ nòng lên tới 150 mm, vận chuyển hàng hóa và binh lính, cũng như làm khung cho nhiều hệ thống phóng tên lửa khác nhau.
Lính radar Semyon Brevdo nhớ lại: "Những chiếc xe tải của Liên Xô bị sa lầy trên đường và phải kéo ra khỏi bùn. Chúng tôi thực sự phải nhấc chúng lên vai.
Những chiếc xe tải Studebaker của Mỹ là cứu tinh. Chúng đi kèm với một tời cáp thép phía trên cản trước. Tời được dẫn động bằng động cơ.
Xe tải có thể tự thoát ra miễn là có vật gì đó để gắn đầu cáp chưa cuộn vào và nó cũng có thể kéo bất kỳ chiếc xe tải nào khác ra. Có một hoặc hai chiếc Studebaker trong đoàn là đủ để cứu vãn tình thế."
Theo Russia Beyond, trong số các phương tiện quân sự được chuyển giao cho Liên Xô có Willys và Dodge WC-51.
Loại thứ hai ban đầu được dùng để kéo súng dã chiến hạng nhẹ, nhưng khi phục vụ Hồng quân, nó được sử dụng rộng rãi bởi các kỹ sư, lính radar, quân y và lính trinh sát trên chiến trường.
Lực lượng Hồng quân nhận được 52.000 chiếc Willys, nhiều gấp đôi so với 25.000 chiếc Dodge WC-51.
Những chiếc Willys này có thể kéo theo súng chống tăng 45 mm và nhờ tốc độ tốt (105 km/h), khả năng cơ động và kích thước nhỏ gọn, dễ dàng che giấu nên chúng rất được các chỉ huy và đội trinh sát ưa chuộng.
Theo Russia Beyond, trong những năm chiến tranh, Liên Xô đã nhận được hơn 3.000 xe lội nước Ford GPA được phát triển từ mẫu Willys tiêu chuẩn.
Quân đội Liên Xô nhận thấy chúng rất hữu ích trong việc tấn công vượt qua nhiều rào cản nước ở Đông Âu, đặc biệt vì thực tế là không có phương tiện quân sự loại này trong biên chế của Hồng quân.
Sau khi chiến tranh Xô-Đức kết thúc, phần lớn phương tiện của phương Tây đã được trả lại Mỹ theo các điều khoản của Thỏa thuận "cho vay - cho thuê" (Lend-Lease).
Tuy nhiên, một tỷ lệ nhất định các xe Dodge và Studebaker vẫn được giữ lại ở Liên Xô. Chúng được sử dụng trong quân đội Liên Xô cho đến cuối những năm 1940 và được coi là một phần của nền kinh tế nước này cho đến giữa những năm 1960.