Các vị khoa bảng làng Nhật Chiêu, sau khi thi đỗ có người tiếp tục học thêm để dự thi Hội, trong đó có một số vị được sung vào làm Giám sinh Quốc Tử Giám, như Phùng Đôn người thôn Đông, đỗ Hương cống khoa Quý Mão (1743) đời Cảnh Hưng.
Bạch Quang Tường người thôn Trung và Đoàn Lệnh Thúc cũng được sung làm Giám sinh. Ngoài ra, phần lớn các nhà khoa bảng sau khi thi đỗ đã tham gia chính sự, được triều đình bổ dụng làm quan ở trong triều hoặc ở ngoài địa phương.
Với thành tích học tập vượt trội nên nhiều người đỗ đạt ở Nhật Chiêu được bổ giữ các chức vụ quan trọng từ tri huyện đến tri phủ và trong triều. Trong số đó phải kể đến Ngô Hữu Đường người thôn Thượng làm Tri phủ phủ Thông Hóa, Lê Đình Tuyển người thôn Trung làm Tri phủ phủ Điện Biên, Kiều Năng Thân người thôn Thượng làm Án sát sứ Tuyên Quang, Ngô Văn Định người thôn Thượng làm Bố Chánh sứ Cao Bằng, Kiều Văn Xuyển người thôn Thượng làm Đốc binh Tuyên Quang quân thứ.
Nguyễn Thúc Giao người thôn Trung làm Hàn lâm viện Đông các Tả giảng, hàm Triều liệt đại phu, tước Hiển Trung hầu. Hương cống Nguyễn Bá Thiêm người thôn Trung làm Thiêm sự Viện Thiêm sự, hàm Hoằng tín đại phu. Hương cống Lê Nguyên Bá người thôn Thượng, được bổ chức Giảng dụ. Cử nhân Ngô Toại người thôn Thượng, được bổ chức Lang trung ở bộ Hộ.
Hiện nay còn nhiều dấu tích, hiện vật liên quan tới các nhà khoa bảng Nhật Chiêu. |
Làng Nhật Chiêu từ xa xưa đã có truyền thống hiếu học, thi đỗ làm quan. Những tấm gương sáng của các nhà khoa bảng ấy đã khích lệ sĩ khí, trở thành một học phong rất đáng trân trọng. Các sĩ tử hăng hái rèn tập, trau dồi bản lĩnh và sẵn sàng ứng thí khi nhà nước mở khoa thi.
Có nhiều khoa ở làng Nhật Chiêu có hai vị cùng đỗ một khoa, như khoa thi Hương năm Giáp Ngọ (1774) đời Cảnh Hưng nhà Lê, ở Nhật Chiêu có hai người cùng đỗ Hương cống là Lỗ Cao Tiên và Kiều Công Đính. Khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1777) đời Cảnh Hưng có Lỗ Nguyên Bá và Ngô Hữu Thường.
Khoa thi Hương năm Kỷ Dậu có hai anh em ruột là Nguyễn Trọng Linh và Nguyễn Thúc Giao cùng thi đỗ. Người em là Nguyễn Thúc Giao còn được lấy đỗ Giải nguyên. Khoa thi năm Quý Dậu (1813) đời Gia Long nhà Nguyễn có Ngô Huy Khanh và Kiều Năng Thân cùng ở thôn Thượng.
Có khoa có ba vị cùng thi đỗ, như khoa năm Đinh Mùi (1847) đời Thiệu Trị nhà Nguyễn có Lỗ Đình Tuyển đỗ Cử nhân, Lỗ Đình Tá và Bạch Văn Lương đỗ Tú tài. Khoa thi năm Nhâm Tý (1852) đời Tự Đức có Ngô Toại đỗ Cử nhân, Ngô Văn Chất và Lỗ Đình Tá cùng đỗ Tú tài.
Truyền thống khoa bảng ở làng Nhật Chiêu được tạo lập bởi có nhiều dòng họ, nhiều gia đình có người đỗ đạt. Trong đó họ Kiều, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Phùng là những họ tộc có nhiều người đỗ đạt nhất. Tính chung cả Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài, ở làng Nhật Chiêu đến năm Tự Đức 32 (1882) có cả thảy 61 vị, phân chia ra các họ: Họ Kiều 15 vị, họ Nguyễn 14 vị, họ Ngô 11 vị, họ Phùng 6 vị, họ Lỗ 5 vị, họ Bạch 3 vị, họ Hoàng 2 vị, họ Đoàn 2 vị, họ Đào, họ Văn và họ Lễ mỗi họ có 1 vị.
Có nhiều gia đình có hai, ba người cùng đỗ, có trường hợp hai anh em trai cùng thi đỗ như Cử nhân Ngô Khải, Tú tài Ngô Hữu Kỷ; anh em Tiến sĩ Ngô Văn Độ và Tú tài Ngô Văn Chất; 5 anh em trai cùng thi đỗ Hương cống là Nguyễn Bá Can, Nguyễn Trọng Linh, Nguyễn Thúc Giao, Nguyễn Thúc Phiên và Nguyễn Thiếu Thường.
Không chỉ là làng khoa bảng thời phong kiến, ngày nay Nhật Chiêu vẫn tiếp nối truyền thống hay chữ của tiền nhân. |
Cũng có trường hợp hai cha con cùng thi đỗ, như cha con Hương cống Phùng Hữu Vọng, Nho sinh Phùng Hữu Danh; cha con Tú tài Lỗ Hồng Tiệm và Cử nhân Lỗ Đình Tuyển. Lại có gia đình cả ba cha con cùng đỗ như gia đình Hương cống Kiều Thể và hai con là Kiều Nguyễn Thung và Kiều Phiên.
Ở làng khoa bảng Nhật Chiêu có đến bốn gia tộc có ông cha con cháu cùng thi đỗ như gia đình họ Ngô: Hương cống Ngô Quý Thực đỗ năm 1753, người con là Ngô Hữu Đường đỗ Cử nhân năm 1834, cháu là Ngô Khải đỗ Cử nhân năm 1868. Hoặc như Sinh đồ Kiều Danh Dương đỗ đời Cảnh Hưng, có con là Kiều Danh Thân đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) đời Minh Mệnh, cháu là Kiều Đức Uông đỗ Tú tài khoa Canh Tý (1840) đời Minh Mệnh.
Theo cách phân loại của sách “Nhật Chiêu hương hiền tính tự phả”, làng Nhật Chiêu có ba vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ), 35 vị đỗ Trung khoa (Hương cống, Cử nhân), và 23 vị đỗ Tiểu khoa (Sinh đồ, Tú tài) xứng đáng được xem là làng khoa bảng sánh ngang với Văn Trưng, Thụ Ích trong vùng Vĩnh Phúc.