Các chuyên gia kinh tế đã chia sẻ những góc nhìn quan trọng về giải pháp đạt tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tới. Trong khi TS. Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh về năng lực động trong khu vực công, TS. Nguyễn Đình Cung lại đề xuất hình thành “các điểm” thể chế đột phá vượt trội so với thông lệ quốc tế tốt, tạo động lực tăng trưởng mới.
Ngày 7/5, tại Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia "Giải pháp đột phá tăng trưởng kinh tế hai con số trong kỷ nguyên mới". Hội thảo thu hút sự tham gia của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, cùng đông đảo chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và doanh nghiệp.
Phát biểu khai mạc, TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam nhấn mạnh chúng ta đang bước vào một giai đoạn phát triển có tính chất quyết định vận mệnh của đất nước. Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mục tiêu đến năm 2030 là trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao.
Để hiện thực hóa khát vọng đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục, ổn định và bền vững trong các thập niên tới.
Trong đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tới không chỉ là tham vọng, mà còn là đòi hỏi thực tiễn, nhằm thu hẹp nhanh khoảng cách phát triển với các quốc gia đi trước hóa giải nguy cơ tụt hậu; tăng cường năng lực nội sinh, sức chống chịu, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo dựng vị thế xứng đáng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nêu ý kiến tại Hội thảo, TS. Vũ Thành Tự Anh (Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright) cho rằng chuyển hóa cơ cấu là chìa khóa cho tăng trưởng cao. Trong đó, ba trụ cột nền tảng của chuyển hóa cơ cấu, đó là thể chế dung hợp, kinh tế thị trường và nhà nước kiến tạo.
Đặc biệt, Nghị quyết 68 mới được ban hành đã xác định khu vực kinh tế tư nhân là trung tâm của quá trình phát triển và là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, để khu vực tư nhân phát huy được vai trò này, cần đồng thời xây dựng một Nhà nước kiến tạo và phát triển. TS. Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh rằng khi tái định vị vai trò trung tâm của doanh nghiệp tư nhân thì cũng cần đặt lại vai trò trung tâm của bộ máy thiết kế, thực thi chính sách, đội ngũ công chức.
"Tăng cường năng lực nhà nước để có thể điều phối, quản lý kinh tế ngày càng hiệu quả trong một nền kinh tế ngày càng trở nên phức tạp, không chỉ ở bên ngoài mà cả bên trong", TS. Tự Anh nói.
Theo đó, TS. Tự Anh đề xuất xây dựng "năng lực động" cho Nhà nước – tức là năng lực học hỏi, thử nghiệm, thích nghi và hợp tác giữa các bộ ngành, lĩnh vực và các cấp chính quyền.
Ông cũng nhấn mạnh 3 cấp độ năng lực, đó là: Năng lực của nhà nước thể hiện qua tính chính danh và cam kết chính trị cao đối với sứ mệnh phát triển; năng lực chính sách thể hiện qua sự đảm bảo sự nhất quán trong thiết kế, phối hợp hiệu quả giữa các công cụ và sự linh hoạt trong thực thi; và năng lực hành chính thể hiện qua việc xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, chủ động và có khả năng điều chỉnh linh hoạt theo thực tiễn.
TS. Tự Anh cho rằng nếu thiếu các năng lực này, các cải cách và chính sách dù giàu tham vọng cũng có nguy cơ bị phân mảnh, ngắn hạn hoặc rơi vào sự chi phối của các nhóm lợi ích. Theo TS. Tự Anh, công chức không chỉ có năng lực mà còn phải dấn thân, liêm chính và thực sự tự hào vì được đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Ngoài ra, TS. Vũ Thành Tự Anh cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý rủi ro địa kinh tế, địa chính trị quốc tế và vĩ mô trong nước. Ông ví von: "Một chiếc xe muốn đi thật nhanh, điều quan trọng chưa chắc đã là ga, mà điều quan trọng hơn có khi là phanh - có một cái phanh tốt mới tự tin để dấn ga".
Bổ sung cho các luận điểm về thể chế, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng điều kiện tiên quyết để đạt tăng trưởng hai con số, đó là đầu tư xã hội/GDP phải đạt tối thiểu 40%, hiệu quả đầu tư phải tăng, ICOR hiện nay phải giảm từ 6 xuống thấp hơn hoặc bằng 4.
Đồng thời, ông khuyến nghị cần theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng; nếu bội chi giới hạn là không quá 5%, thì tiết kiệm của chính phủ phải đạt ít nhất 3% bằng cách giảm, tiết kiệm chi thường xuyên. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức trong bối cảnh có chủ trương miễn phí một số dịch vụ công thiết yếu như khám chữa bệnh, học phí phổ thông...
Đáng chú ý, TS. Cung dẫn lại chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về vai trò của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bảo đảm cơ chế thị trường vận hành hiệu quả, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội. Theo ông, đây cần được coi là định hướng cốt lõi để đột phá thể chế, là tiêu chí để rà soát, bãi bỏ các quy định pháp luật không phù hợp.
Ông nhấn mạnh việc tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế, từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, “năng lực quản lý nhà nước đến đâu thì mở cho đầu tư đến đó”; bãi bỏ các thủ tục hành chính mang tính xin–cho, không rõ ràng, tùy tiện trong diễn giải và áp dụng; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp được tự do kinh doanh, đổi mới sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, luật pháp phải phát huy sức mạnh từ nhân dân và mọi thành phần kinh tế bằng cách xây dựng một nền hành chính hiệu quả, năng động và môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và làm giàu
TS. Nguyễn Đình Cung ví von thu hút “đại bàng” nhưng cũng cần tạo những “cánh rừng”, “cánh đồng” cho các “đàn ong” lấy mật – tức phát triển đồng đều cả doanh nghiệp lớn và vừa, nhỏ, siêu nhỏ.
Theo đó ông Nguyễn Đình Cung đề xuất thực hiện chương trình quốc gia về khởi nghiệp và phát triển kinh tế tư nhân, đặt mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 1,5 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Đồng thời, hình thành các “điểm thể chế” đột phá vượt trội, thành lập các khu tự do đổi mới sáng tạo công nghệ cao (nâng cấp, mở rộng các khu công nghệ cao hiện có và đầu tư thành lập thêm các khu mới).
Nơi đây được ưu đãi vượt trội về thủ tục hành chính, thuế, đất đai, chế độ visa, lưu trú... Các hoạt động R&D, thử nghiệm, sản xuất được tự do trong phạm vi quy định rõ ràng; Nhà nước đồng hành bằng các cơ chế hỗ trợ nghiên cứu thông qua các quỹ quốc gia và ngành, địa phương.
Trong khi đó, PGS.TS Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, kiến nghị xây dựng Chiến lược quốc gia thúc đẩy Khoa học - Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số cho cho thời kỳ tăng trưởng nhanh và bền vững (giai đoạn 2026-2045). Đây phải là văn kiện tích hợp, thống nhất và cập nhật từ các chiến lược hiện hành, đóng vai trò như "cương lĩnh hành động" để thực hiện Nghị quyết 57 và các nghị quyết lớn của Đảng trong kỷ nguyên vươn mình trước những thách thức của cuộc cách mạng số.
TS. Trần Anh Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Hành chính, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh 6 giải pháp đột phá về nhân lực và nhân tài, đó là cải cách và chấn hưng giáo dục; nâng cao chất lượng đào tạo; ưu tiên phát triển nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực chiến lược; xây dựng chế độ công vụ mới; hoàn thiện thể chế và ứng dụng công nghệ số, AI trong phát triển nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các địa phương như chủ thể của sự phát triển. Thực tế cho thấy, nhiều tỉnh thành đã đi đầu trong cải cách hành chính, thu hút đầu tư chiến lược, phát triển các mô hình tăng trưởng mới và trở thành điểm sáng tăng trưởng của cả nước.
Tuy nhiên, để phát huy vai trò này một cách bền vững, cần có cơ chế phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, thực chất, gắn với trách nhiệm giải trình và cơ chế kiểm soát quyền lực minh bạch. Chính quyền địa phương cần được trao thêm quyền tự chủ trong quản lý ngân sách, quy hoạch phát triển và lựa chọn nhà đầu tư, gắn với năng lực quản trị địa phương.