Cuộc đời ngẫm cũng lạ, có những cái mất đi, một thoáng buồn rồi cũng sẽ vơi đi, song có những cái không may vuột khỏi tầm tay, người ta khao khát kiếm tìm trong khắc khoải ước ao. Nhan đề truyện “Và tôi vẫn muốn mẹ” gợi ra cho người đọc một suy ngẫm, trong bất kì hoàn cảnh nào, niềm khát khao tìm mẹ, gặp mẹ của cậu bé 8 tuổi luôn cháy bỏng nhất, da diết nhất, cho dù đó là niềm khát khao trong vô vọng, đáng thương đến tội nghiệp xót đau.
“Tôi năm nay đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn có mẹ”. Nếu chọn câu văn tình nhất trong truyện kí hơn nghìn chữ này, tôi tin nhiều người sẽ khẳng định, đây là câu văn đắt giá nhất. Cái tình nhen lên bởi niềm ước ao chân thật của người đàn ông đứng tuổi, đã có điểm tựa tinh thần là hai đứa con. Lẽ đời, người ta chỉ cháy bỏng khi không có bến bờ để trao gửi, tựa nương.
Nhưng, trong truyện kí này, thời gian đã đi qua, mấy mươi năm cuộc đời, cậu bé lạc mẹ bởi chiến tranh giờ trưởng thành vẫn luôn khao khát có mẹ. Mong ước rất đời mà xúc động trái tim. Dõi theo truyện, người ta sẽ nhận thấy, đây không phải nguyện ước ở một thời điểm, mà là ước ao của chuỗi dài năm tháng. Mấy mươi năm thất lạc, cũng là mấy mươi năm tìm kiếm hơi ấm yêu thương của người con luôn khát khao tình mẫu tử.
Trở lại với tháng ngày lưu lạc, trong trại tập trung, theo lời kể của nhân vật, “những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa, được cho ở riêng. Ban đêm chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ. Các cô bảo mẫu và giáo viên không nhắc đến từ ‘mẹ’, nhưng nếu ai đó bất ngờ nhắc đến ‘mẹ’, lập tức tất cả khóc òa. Gào khóc không nguôi”. Mấy câu văn nói đủ trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ. Nhớ mong, khát thèm đến tội nghiệp. Nước mắt tuôn rơi, tiếng gọi mẹ nhoi nhói trong tim, cái òa khóc tội nghiệp. Thương quá những tâm hồn thơ bé. Chúng cần sự ấm áp của tình mẹ - thứ tình cảm không gì thay thế được.
Cuộc chia ly bất ngờ nên nỗi đau càng lớn, chiến tranh đẩy người ta vào nghịch cảnh, để rồi khắc khoải trong nỗi nhớ niềm mong. Thế nên, cậu bé lớp Ba, sẵn sàng trốn khỏi trại mồ côi đi tìm mẹ, đói lả và kiệt sức. Suốt cuộc chiến, cậu bé đã chờ đợi, khi nào chiến tranh kết thúc, sẽ thắng con ngựa đi tìm mẹ, rồi chiến tranh kết thúc “mẹ không đến”, cậu bé tội nghiệp không còn sức để đợi, cậu lẻn trốn dưới gầm ghế một con tàu và ra đi. Đi đâu? Đi tìm mẹ. Có thể nói, nếu phần đầu truyện gắn với sự thảm khốc, đói khổ của chiến tranh, mất mát chia ly thì phần cuối là hành trình của tìm kiếm, nhưng càng tìm càng tuyệt vọng. Bởi vậy, nỗi đau ngân dài nỗi đau, khát khao vẫn chỉ là khát khao.
Chiến tranh đã đi qua, cái cảm giác đói và thiếu mẹ vẫn luôn bám riết dai dẳng nhân vật “tôi”. Vết thương ngoài thịt da rồi cũng lành, chỉ có vết thương trong tâm hồn mãi luôn rỉ máu. Nhân vật tôi đã mất mẹ, mất mát không bao giờ bù đắp được, cho dù anh đã có gia đình nhỏ, song niềm khát khao có mẹ chẳng bao giờ cạn vơi. Câu kết của truyện vẻn vẹn bảy chữ, đủ để khẳng định nỗi khát thèm tình mẫu tử thiêng liêng của người con nay đã trưởng thành.
Quả thực “Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ”, “mẹ còn sống thì con còn được bé”, nhưng với nhân vật tôi, tất cả chỉ có trong giấc mơ. “Mẫu tử tình sâu”, tuyệt biết bao, tình sâu đó trường tồn cùng năm tháng. Và niềm khát khao “vẫn có mẹ” của nhân vật trong truyện là niềm khát khao của muôn triệu trái tim ta bắt gặp trong cuộc sống thường ngày. Nhân văn và cao đẹp! Mong sao, ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc! Chút vô tình sẽ còn lại những day dứt ăn năn.
Bìa tác phẩm “Những Nhân Chứng Cuối Cùng”. Ảnh: INT |
Truyện kí được xếp vào loại văn học phi hư cấu. Nét nổi bật của truyện kí là kể về người thật, việc thật. Tôn trọng sự thật đời sống, đảm bảo tính xác thực của toàn bộ sự việc được kể là đòi hỏi hàng đầu của truyện kí. Văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ” của Svetlana Alexievich mang đầy đủ đặc trưng của thể loại. Tư liệu sống được dùng để viết nên truyện kí này hoàn toàn do một người thợ làm tóc năm mươi mốt tuổi tên là Din-na Cô-si-ắc cung cấp cho nhà văn - nhà báo Alexievich.
Bởi vậy, đây là câu chuyện về người thật, việc thật. Thời điểm kể lại câu chuyện cho tác giả nghe, người đã kể năm mươi mốt tuổi. Chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, điều đó cho thấy những sự kiện được kể lại gắn với trải nghiệm trực tiếp của người kể, đó là những năm tháng tuổi thơ chia ly đau đớn bởi chiến tranh của cậu bé mới 8 tuổi. Kể về đời mình, nhân vật tôi không giấu nổi thái độ, tâm trạng trước các sự kiện, câu chuyện lay động lòng người bởi tính chân thực, ngắn gọn trong từng sự việc được kể, chuyện một người, có sự đồng cảm với nhiều người, nhất là những cuộc đời đã đi qua bom đạn chiến tranh.
Mỗi nhà văn đều có một dạng vân chữ, lối kể riêng độc đáo. Bề ngoài, nhà văn là người nghe và ghi lại diễn biến câu chuyện, song tác giả có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập văn bản. Vai trò này không chỉ thể hiện ở việc lựa chọn ngôn từ, giọng kể, mà còn ở cách sắp xếp sự việc, cách sáng tạo các chi tiết, hình ảnh giàu ý nghĩa.
Đặc biệt, mặc dù người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất xưng “tôi”, nhưng lời kể không còn là lời “nguyên bản” của người thợ làm tóc, mà là lời kể có tính nghệ thuật, được nhà văn sáng tạo nên. Qua lời kể, nhà văn thể hiện thái độ đồng cảm với những đau thương, mất mát mà nhân chứng từng nếm trải. Bên cạnh đó, cái thú nhất trong nghệ thuật truyện kí của Alexievich là cách chọn lọc các chi tiết đắt giá. Cái cơ cực, đói nghèo bởi chiến tranh, cuộc sống thiếu vắng tình thương của những đứa trẻ được thể hiện chính xác, xúc động qua các chi tiết lay động lòng người.
“Mỗi tác phẩm văn học chân chính phải là một lời đề nghị về lẽ sống”. Chân thực, xúc động, truyện kí “Và tôi vẫn muốn mẹ” của nữ văn sĩ Svetlana Alexievich mang đến cho độc giả “lời đề nghị về lẽ sống” cao đẹp, nhân văn: Trong tận cùng nước mắt nỗi đau, tình mẫu tử vẫn thiêng liêng bất diệt và trở thành niềm khát khao cháy bỏng của con người; chiến tranh là chia ly nước mắt, ước sao thế giới luôn được sống trong hòa bình, ở đó bàn tay sẽ nắm bàn tay trong sự đoàn kết yêu thương. Bấy giờ, sẽ không còn cảnh những đứa trẻ phải “gọi ba gọi mẹ” trong nghịch cảnh xót đau.