Tròn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày non sông liền một dải, trong ký ức của cựu binh Bùi Hoan (SN 1942, trú tại phường Hà Huy Tập, TP Hà Tĩnh), từng giây phút hào hùng của ngày “tiến về Sài Gòn” vẫn vẹn nguyên.
Trong những ngày tháng Tư lịch sử, chúng tôi tìm đến ngôi nhà cấp bốn giản dị nằm trong con hẻm nhỏ ở phường Hà Huy Tập, TP Hà Tĩnh. Tại đây, người lính già Bùi Hoan - nguyên sĩ quan đốc chiến Lữ đoàn 203, Trung đoàn 2 vẫn ngày ngày chăm chút khu vườn nhỏ, sống thanh thản với những ký ức không bao giờ phai nhạt.
Dù đã bước sang tuổi 83, phải dùng máy trợ thính, nhưng ông Hoan vẫn giữ được dáng vẻ nhanh nhẹn, giọng nói dứt khoát, rõ ràng. Trong câu chuyện với chúng tôi, ánh mắt ông rực sáng khi kể về những năm tháng chiến đấu, nhất là khoảnh khắc hào hùng cùng đồng đội tiến vào Dinh Độc Lập, góp phần làm nên bản hùng ca đại thắng mùa Xuân 1975.
Tháng 2/1961, khi vừa tròn 19 tuổi, chàng thanh niên Bùi Hoan từ làng Thạch Phú (nay là phường Hà Huy Tập) hăng hái lên đường nhập ngũ, mang theo khát vọng cống hiến cho nền độc lập của Tổ quốc. Sau ba tháng huấn luyện bộ binh, ông được tuyển chọn học lái xe tăng tại Trung đoàn 202 (Vĩnh Phú), rồi tiếp tục học sĩ quan pháo cao xạ tại Sơn Tây (Hà Nội).
Tháng 10/1965, sau khi hoàn thành các khóa huấn luyện, ông được điều về Trung đoàn 225 pháo cao xạ, làm nhiệm vụ bảo vệ sân bay. Từ đó đến tháng 4/1974, ông trực tiếp tham gia chiến đấu tại nhiều chiến trường ác liệt: Miền Bắc, Đông Lào, Nam Lào, Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế… gắn bó với nhiều đơn vị, nhiều cương vị khác nhau.
Ngày 17/5/1974, khi Quân đoàn 2 chính thức thành lập, ông được điều về Bộ Tham mưu Quân đoàn, giữ chức Trợ lý tác chiến - phụ trách xe tăng. Từ đây, hành trình “xuyên phá” vào Nam cùng các đơn vị tăng thiết giáp bắt đầu, kéo dài đến ngày toàn thắng 30/4.
Trong ký ức gần ba thập niên quân ngũ, Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra từ ngày 26 đến 30/4/1975 là cột mốc đặc biệt nhất với ông Hoan. Khi đó, ông là sĩ quan đốc chiến thuộc Bộ Chỉ huy chiến dịch - Binh đoàn Duyên Hải, với lực lượng chủ công là Quân đoàn 2.
Nhiệm vụ của ông là điều hành lực lượng thọc sâu của Lữ đoàn 203 tăng thiết giáp - lực lượng được giao trọng trách đánh thẳng vào Dinh Độc Lập. Những ngày ấy, trong khói lửa ngút trời, người sĩ quan đốc chiến luôn sát cánh bên đồng đội, vừa chiến đấu, vừa chỉ huy, vừa tận dụng mọi kiến thức về kỹ thuật để sửa chữa xe tăng hư hỏng, duy trì sức mạnh xuyên phá của đội hình thiết giáp.
“Ban ngày chiến đấu ác liệt, ban đêm anh em lại mò vào bãi xe đối phương bị hư hỏng để tháo linh kiện, lấy về thay thế. Chính vì thế mà Lữ đoàn 203 luôn giữ được lực lượng xe tăng sung sức suốt chiến dịch”, ông Hoan chia sẻ.
Người cựu binh nhớ rõ cảm giác rạo rực vào chiều 29/4/1975 - thời điểm báo hiệu trận đánh quyết định đang đến rất gần. “Chiều hôm đó, toàn bộ chiến sĩ được cấp phát quần áo mới, mũ cứng, quân hàm... Ai nấy đều lạ lẫm vì suốt cuộc chiến, mấy khi được cấp phát đồng loạt như vậy. Dù chưa có lệnh chính thức, tất cả đều ngầm hiểu: Giờ G sắp đến!”, ông Hoan kể.
Đêm 29/4 - rạng sáng 30/4, là một trong những thời khắc ác liệt và xúc động nhất. Trên đường tiến quân, khi tới cầu sông Buông, cầu đã bị địch phá sập. Suốt từ 20 giờ đến 3 giờ sáng, toàn bộ Lữ đoàn 203, từ sĩ quan đến lính tăng, lính công binh, dốc toàn lực sửa cầu.
“Phải nói rằng, anh em suốt đêm, cả cán bộ chiến sĩ, đốc chiến, cán bộ trên quân đoàn xuống đều tìm cách sửa cầu sông Buông để xuất kích đúng giờ G. Cảm động nhất thời điểm đó là pháo đối phương từ trong Tân Sơn Nhất, Gò Vấp, Thủ Đức… bắn ra, nhưng cán bộ chiến sĩ lính xe tăng dũng cảm lắm, cho xe nổ máy liên tục để khắc phục cầu và để bảo đảm cho công binh yên tâm vì có xe tăng chắn đạn. Lính xe tăng đứng 2 đầu như lá chắn để công binh sửa cầu, tất cả mọi người đều dũng cảm không còn biết sợ, kể cả phải hy sinh. Tất cả xác định: Không vượt cầu, không thể chiến thắng”, giọng cựu binh Bùi Hoan nghẹn ngào.
Trong quá trình tấn công vượt qua cầu Biên Hòa - Rạch Chiếc - Thủ Đức, thời điểm bắt đầu đến cầu Sài Gòn cực kỳ ác liệt, đối phương tấn công dữ dội, còn bao nhiêu đạn đều xả hết và đó cũng là giây phút “một mất, một còn” tranh giành nhau giữa sự sống và cái chết.
“Lúc đó, quân lực Việt Nam Cộng hòa trong tâm lý còn nước còn tát nên trút toàn bộ đạn dược, còn viên nào cũng bắn xả hết. 3 xe tăng đi đầu của ta bị bắn cháy, trong đó có xe của Đại úy Tiểu đoàn trưởng và đồng chí ấy hy sinh. Chúng tôi lúc đó ngồi trên xe chỉ huy, nhưng nhảy xuống chạy bộ với cán bộ, tham mưu Lữ đoàn, đốc chiến Lữ đoàn đến thị sát tình hình.
Lúc đó không còn biết chết sống nữa rồi, phải trực tiếp xem tình hình phía trước tại sao phải dừng lại, không tiến được. Khi nắm được tình hình, chúng tôi đã liên lạc, báo cáo Tư lệnh. Tư lệnh chỉ đạo quyết tâm, dùng biện pháp cảm tử. Chúng tôi đã cho xe tăng, gạt những xe bị bắn cháy về một bên. Người nào bị thương thì tự băng bó, còn tất cả không thể dừng”, cựu binh Bùi Hoan nhớ chi tiết từng giây phút thần tốc và ác liệt.
Thời điểm đó, theo ông Hoan, chiếc xe tăng của đồng chí Bùi Quang Thận vượt lên được trước tiên, địch thấy xe tăng vượt lên thì bỏ chạy. Thời khắc đó chỉ diễn ra trong khoảng vài ba phút.
“Phải nói những người lính lúc đó cực kỳ anh dũng, kiên cường. Xét về tương quan lực lượng lúc đó bên kia chiến tuyến hơn ta nhiều. Họ cho tàu, xe tăng ra cản rồi từ các hỏa điểm trên nhà cao tầng bắn xuống, còn quân ta đi trống trơn giữa đường lớn. Nhưng quân ta vẫn “thẳng đường mà tiến”, không hề có chút sợ hãi. Chúng tôi đã đánh thắng bằng ý chí kiên cường, bên kia phải rút lui, cũng là thời khắc quyết định để tiến vào Dinh Độc Lập”, ông Bùi Hoan nói.
Lúc tiến vào Dinh Độc Lập, một kỷ niệm khiến ông Hoan vẫn cười thầm khi nhớ lại, đó là khi cổng Dinh Độc Lập bị húc đổ, ông cùng nhiều chiến sĩ khác xung phong chạy lên nhưng đều bị đụng vào tấm kính chống đạn trong dinh và ngã xuống.
“Đó vừa là kỷ niệm khá “quê” với chúng tôi, cũng tại quân đội ta đánh từ trên núi xuống, khi vào thành phố Sài Gòn và Dinh Độc Lập, nhìn cảnh vật, đồ đạc chưa quen. Một phần do tấm kính rất trong, xuyên suốt, phần nữa là những người lính quên hết mọi rào cản phía trước, cứ thế mà xông lên, không để ý kỹ. Chúng tôi cùng cười mãi”, ông Hoan kể.
Kỷ niệm sâu sắc nhất của ông Hoan là khi đồng chí Bùi Quang Thận chạy lên cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập, ông và các chiến sĩ khác tiến vào phòng nội các của Dương Văn Minh. Trên chiếc ghế bành được mạ bằng vàng không có ai ngồi. Cả phòng họp có 23 người ngồi co cụm lại một góc phòng, người nào cũng run. “Nhưng chúng tôi biết ai là Dương Văn Minh, vì Dương Văn Minh to nhất, cao nhất”, ông Hoan nói.
Sau khi miền Nam được giải phóng hoàn toàn, những người lính giải phóng được người dân Sài Gòn đổ xô ra đường vẫy cờ hoa chào đón, chúc mừng. Nhiều người dân còn mang theo thức ăn, nước uống trao cho các chiến sĩ. Ai nấy đều vui sướng, phấn khởi trong niềm vui chiến thắng, non sông vẹn toàn.
“Xúc động nhất là đêm 30/4, tất cả chúng tôi đều khóc, chỉ huy thấy vậy hỏi tại sao thì mọi người đều trả lời do thương Bác Hồ quá. Quân dân đã hoàn thành di chúc của Bác, nhưng không được cùng Bác hưởng trọn niềm vui”, ông Hoan kể về giây phút xúc động.
Sau ngày chiến thắng, ông Hoan tiếp tục hoạt động trong quân ngũ, đến năm 1989, ông về hưu với cấp hàm Trung tá, nguyên quyền Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 203, Quân đoàn 2. Cựu binh Bùi Hoan đã có thời gian phục vụ trong quân ngũ là 28 năm 9 tháng (chưa quy đổi).
Khi về hưu, cựu binh Bùi Hoan đã đóng góp rất nhiều cho địa phương. Đặc biệt, 3 trong số 4 người con của ông Hoan cũng đều tham gia nghĩa vụ quân sự và trở về quê hương lập nghiệp.
Ông từng làm Bí thư khối phố gần 10 năm, đến năm 2014, do vấn đề sức khỏe, ông Hoan xin nghỉ. Ông được nhận nhiều danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước, địa phương.
Ông Lê Văn Minh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Hà Huy Tập (TP Hà Tĩnh) cho hay, ông Bùi Hoan hiện là Hội viên Hội Cựu chiến binh tại địa phương. Là người có đóng góp to lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.