Theo bà Ramla Khalidi, thử nghiệm chính sách có thể giúp xác định những lỗ hổng và tính thiếu nhất quán trong các chính sách hiện hành và nhu cầu thực tế của khu vực tư nhân khi đầu tư vào KHCN và đổi mới sáng tạo. Việt Nam có thể áp dụng thử nghiệm chính sách để khắc phục những khó khăn trong thu hút đầu tư của khu vực tư nhân để phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo.
Đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam liên quan đến đầu tư cho KHCN, đại diện UNDP cho rằng trước hết, cần phát triển khu vực doanh nghiệp bằng cách thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước nhằm cải thiện tổng thể môi trường đầu tư kinh doanh về tính cạnh tranh, khả năng tiếp cận tài chính và các yêu cầu thủ tục hành chính.
Ngoài ra, Việt Nam có thể thực hiện một chương trình thí điểm hợp tác công tư, được xây dựng phù hợp cho mục đích nghiên cứu-phát triển và đổi mới sáng tạo. Từ đó tập trung và khai thác nguồn lực khác nhau, đồng thời tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nước ngoài.
Cuối cùng, để khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu đầu tư vào KHCN, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp sáng tạo và công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần ban hành các chính sách ưu đãi và không ưu đãi về thuế để thu hút vốn đầu tư, cả trong và ngoài nước, vào các lĩnh vực ưu tiên này.
Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, phân tích các lợi ích, đánh giá những rào cản, vướng mắc trong thu hút đầu tư tư nhân trong việc phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo, từ đó đề xuất một số giải pháp trọng tâm để thúc đẩy các nguồn lực xã hội, đặc biệt là nguồn đầu tư tư nhân tham gia phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Đó là cần tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển KHCN, cho hoạt động nghiên cứu KHCN theo hướng khuyến khích các tổ chức KHCN sử dụng hiệu quả ngân sách, có chấp nhận rủi ro, có sự đo lường đánh giá theo kết quả đầu ra; cần khuyến khích và đẩy mạnh hợp tác công - tư và đầu tư tư nhân trong các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; thành lập các Quỹ Đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực KHCN; thí điểm chính sách khuyến khích viện nghiên cứu, trường đại học thu hút đầu tư tư nhân vào các hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo để từ đó rút ngắn khoảng cách giữa doanh nghiệp và trường đại học, giữa khối ứng dụng tri thức và khối tạo ra tri thức…
Chia sẻ khó khăn của các cơ sở nghiên cứu, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Lê Quân cho biết: "Không ra đề bài rõ thì rất khó để trả lời, rất khó gắn nghiên cứu với chuyển giao. Hợp tác giữa viện trường với doanh nghiệp là để giải quyết câu chuyện đề bàu này. Hơn nữa, doanh nghiệp khi hợp tác các trường đại học thì có thể tận dụng khai thác tiềm năng của đội ngũ nghiên cứu, nguồn nhân lực chất lượng cao".
Nêu thực tiễn, PGS.TS Vũ Văn Tích, Trưởng Ban KHCN (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho biết mặc dù đã có sự gia tăng rõ rệt về số lượng, chất lượng và quy mô hợp tác nghiên cứu, tiềm năng hợp tác với các đối tác của Đại học Quốc gia Hà Nội hiện mới chỉ được khai thác một phần nhỏ và cần có những chính sách giúp thúc đẩy hơn nữa hoạt động này.
Do đó, Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất Nhà nước cần sớm tháo gỡ những điểm nghẽn nhằm giải phóng nguồn lực của các trường đại học cho hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo. Nếu như chưa có đủ điều kiện chín muồi để ban hành các quy định chính thức thì Nhà nước có thể cho phép thí điểm một số chính sách.
Ví dụ như cho phép nhà khoa học ở trường đại học công làm việc về R&D cho doanh nghiệp (như vậy sẽ tạo điều kiện cho hợp tác công – tư thu hút đầu tư tư nhân cho hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo); cho phép trường đại học tự định giá tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của đơn vị và sử dụng kết quả định giá đó cho việc góp vốn hình thành doanh nghiệp KHCN…
Bên cạnh đó, cần thiết lập được và thúc đẩy phát triển các mô hình hợp tác công – tư phù hợp trong các trường đại học để lôi kéo được sự quan tâm đầu tư từ các đối tác tư nhân. Trong đó có thể thấy những mô hình đã được áp dụng thành công như công ty holdings của trường đại học, doanh nghiệp spin-off (sử dụng vốn công nghệ của nhà trường và tiền đầu tư của doanh nghiệp/cá nhân)…
Trong khuôn khổ Hội thảo, UNDP đã công bố và giới thiệu về Bản đồ cơ hội đầu tư hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) tại Việt Nam, do UNDP xây dựng với sự hỗ trợ của Trung tâm Thực hành và Đầu tư tác động (CIIP), đối tác chính trong sáng kiến SDG Impact của UNDP tại khu vực ASEAN.
Bản đồ là cơ sở để Việt Nam định hướng đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên theo mục tiêu phát triển bền vững nhằm không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn tính đến các kết quả về môi trường và xã hội, hướng tới một tương lai xanh, bền vững và thịnh vượng.