Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2025 cũng như đề thi vào lớp 10 của các tỉnh, thành phố cho thấy định hướng giới hạn phạm vi ra đề môn ngữ văn không phù hợp với thực tế.
Triển khai đánh giá theo chương trình GDPT mới (2018), Thông tư số 24/2024/TT-BGDĐT và Thông tư số 30/2024/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT tiếp nối “truyền thống” của chương trình năm 2006, xác định phạm vi đề thi chủ yếu tập trung ở chương trình lớp 12 với thi tốt nghiệp THPT và ở chương trình lớp 9 với thi vào lớp 10.
Một số lưu ý của chuyên gia trên các phương tiện truyền thông cũng có định hướng tương tự.
Đặc biệt, thời gian qua, giáo viên nhiều nơi gửi cho tôi một tài liệu dùng để tập huấn ra đề thi tốt nghiệp THPT do Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT) tổ chức, đối tượng tập huấn là giáo viên cốt cán các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Một số định hướng quan trọng về phạm vi ra đề trong tài liệu này cũng nhất quán với những quy định trên của các thông tư và lưu ý của chuyên gia.
Cuối tài liệu, nhóm soạn thảo có đề nghị: “Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT) lưu lại văn bản kết luận này vào hồ sơ của Cục làm tài liệu tham khảo chính thức cho tổ/ban ra đề thi tốt nghiệp của Bộ hàng năm. Coi đây là tài liệu mang tính pháp lý để phổ biến và thực hiện việc hướng dẫn ôn tập cho học sinh.
Đây cũng là cơ sở cho việc biên soạn đề thi tốt nghiệp THPT từ trung ương đến địa phương; bảo đảm sự thống nhất về yêu cầu và định hướng trong đánh giá kết quả học tập ngữ văn trên toàn quốc.”
Đề nghị đó chứng tỏ đây là một tài liệu rất quan trọng. Vì vậy, nó có ảnh hưởng rất sâu rộng. Nếu có sai sót nào đó thì sẽ có tác hại lâu dài.
Tuy vậy, đối chiếu với đề thi thực tế, có thể thấy, định hướng phạm vi ra đề thi từ Thông tư của Bộ GD&ĐT đến hướng dẫn của các chuyên gia đều cần phải nắn chỉnh.
Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2025 có cấu trúc đúng như cấu trúc đề thi minh họa mà Bộ GD&ĐT đã công bố, nhất là đề minh họa lần 2.
Phần Đọc hiểu (4 điểm) có ngữ liệu là một đoạn trích của một truyện ngắn và 5 câu hỏi/yêu cầu. Phần Viết có viết đoạn nghị luận văn học (2 điểm) và viết bài nghị luận xã hội (4 điểm). Cả hai phần viết đều có nội dung kết nối với ngữ liệu phần Đọc hiểu.
Điểm khác biệt đáng kể nhất giữa hai đề thi là đề thi minh họa lần 2 có ngữ liệu đọc thuộc thể loại thơ, còn đề thi thực tế có ngữ liệu đọc thuộc thể loại truyện ngắn.
Không hẹn mà gặp, đề thi tốt nghiệp THPT với đề thi tuyển sinh vào lớp 10 của một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, TPHCM,… đều chọn ngữ liệu đọc hiểu và nội dung phần viết có sự kết nối về chủ đề, giúp học sinh thuận lợi hơn khi làm bài.
Cùng với hệ thống câu hỏi đọc hiểu, cách thiết kế đề thi như vậy giúp giáo viên và học sinh tránh được ngộ nhận dạy học ngữ văn theo chương trình mới chỉ cần chú ý đến thể loại, một ngộ nhận khá phổ biến mà trong quá trình tập huấn, chúng tôi vẫn thường phải nhắc đi nhắc lại để tránh đi từ cực đoan này (không chú ý đến đặc điểm thể loại của văn bản) đến cực đoan khác (cho rằng dạy tác phẩm văn học, chỉ cần tập trung vào vấn đề thể loại).
Chỉ có bài viết nghị luận xã hội (4 điểm) có thể coi là thuộc một kiểu bài được quy định trong chương trình lớp 12. Đến khi số lượng đề thi tốt nghiệp THPT đủ lớn thì ta cũng sẽ có một kết quả thống kê tương tự các đề thi vào lớp 10: nội dung các đề thi một phần đáng kể không thuộc chương trình lớp cuối cấp.
Thứ hai, tài liệu tập huấn hướng dẫn: “Câu hỏi tiếng Việt cần chú ý các đơn vị kiến thức tiếng Việt học ở lớp 12, sau đó là phạm vi lớp 11, 10 và các lớp dưới (nhất là các biện pháp tu từ). Chú ý yêu cầu ít nhất 1 câu tiếng Việt, 1 đơn vị tiếng Việt có thể liên quan đến cả 3 mức độ tùy cách nêu yêu cầu…”
Do phải bám sát vào ngữ liệu đọc hiểu nên câu hỏi về tiếng Việt không nhất thiết phải đúng với kiến thức tiếng Việt trong chương trình lớp vừa học (dĩ nhiên không thể hỏi về kiến thức tiếng Việt ở chương trình lớp trên, tức học sinh chưa học).
Chương trình ngữ văn lớp 12, phần tiếng Việt chỉ có một số kiến thức ít ỏi. Vì vậy, hướng dẫn “chú ý các đơn vị kiến thức tiếng Việt học ở lớp 12” là vô nghĩa. HS cần phải ôn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức tiếng Việt của tất cả các lớp đã học, kể cả Tiểu học.
Và đó mới là định hướng đúng theo yêu cầu đánh giá năng lực sử dụng ngôn ngữ của người học. Trong đề thi tốt nghiệp THPT 2025, câu hỏi về tiếng Việt liên quan đến kiến thức ở Tiểu học (biện pháp tu từ so sánh).
Tiện thể xin nói, ý hướng dẫn “có thể liên quan đến cả 3 mức độ tùy cách nêu yêu cầu” cũng không đúng.
Câu hỏi về tiếng Việt phải nằm ở mức 2 (hiểu, nói chính xác hơn là phân tích, suy luận), chứ không nên ở mức 1 (nhận biết) vì câu hỏi nhận biết chỉ đánh giá kiến thức, không đúng với định hướng đánh giá kỹ năng sử dụng tiếng Việt và không nên ở mức 3 (vận dụng) vì câu hỏi vận dụng phải dành cho kết quả đọc hiểu toàn văn bản, kết nối nội dung văn bản với đời sống và trải nghiệm cá nhân của học sinh, chứ không phải dành riêng cho kiến thức tiếng Việt.
Cần lưu ý, đừng nên nhầm lẫn câu hỏi vận dụng kiến thức tiếng Việt để đọc hiểu văn bản với câu hỏi vận dụng trong đọc hiểu văn bản nói chung, đó không phải là một tuy đều có từ “vận dụng”.
Thực tế tuyển sinh vào lớp 10 môn ngữ văn vừa qua cũng cho thấy định hướng phạm vi ra đề thi tập trung chủ yếu ở chương trình lớp 9 không còn phù hợp.
Thống kê 57 đề thi tuyển sinh vào lớp 10 trên cả nước, phần Đọc hiểu chỉ có 13 đề thi dùng ngữ liệu thuộc loại, thể loại văn bản trong chương trình lớp 9. Còn 44 đề thi dùng ngữ liệu thuộc loại, thể loại văn bản không thuộc chương trình lớp cuối cấp.
Phần tiếng Việt chỉ có 4 câu hỏi liên quan đến kiến thức tiếng Việt ở lớp 9, có 18 câu hỏi liên quan đến kiến thức tiếng Việt ở các lớp khác của THCS, 35 câu hỏi liên quan đến kiến thức tiếng Việt ở Tiểu học, 2 câu hỏi liên quan đến kiến thức tiếng Việt ở lớp 10, tức “vượt chương trình”.
Phần Viết bài có 43 đề thi yêu cầu viết bài nghị luận thuộc chương trình lớp 9, trong đó có 38 bài văn nghị luận xã hội và 5 bài văn nghị luận văn học. 14 đề thi yêu cầu viết bài nghị luận xã hội không thuộc chương trình lớp 9, tức không thuộc kiểu bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết.
Phần viết đoạn, như tôi đã đề cập trong một bài viết trước, các đề thi thiết kế nhiều kiểu đa dạng, không nhất thiết phải bám sát vào kiểu bài cụ thể ở một lớp. Và đó là cách triển khai có thể chấp nhận được.
Trong 57 đề thi, chỉ có duy nhất đề thi của Hải Phòng có yêu cầu đọc hiểu, thực hành ngôn ngữ và viết bài văn nghị luận hoàn toàn thuộc chương trình lớp 9.
Phân tích cụ thể có thể cho thấy rõ hơn những bất cập của định hướng phạm vi ra đề chủ yếu ở chương trình lớp cuối cấp.
Nếu chỉ giới hạn ở chương trình lớp 9 thì văn bản văn học chỉ có mấy thể loại sau: truyện thơ Nôm, truyện truyền kỳ, truyện trinh thám, thơ song thất lục bát, bi kịch. Ngoài ra, có thể có thêm thơ tám chữ, do yêu cầu của phần Viết, nên cũng có thể coi là thuộc phạm vi đọc hiểu của chương trình lớp 9. Còn các từ khóa như “thơ tự do”, “thơ sáu chữ”, “thơ bảy chữ”, “truyện ngắn” không hề xuất hiện trong yêu cầu cần đạt về đọc hiểu trong chương trình lớp cuối cấp.
Về tiếng Việt, tuy nội dung kiến thức trong chương trình lớp 9 khá phong phú, nhưng tìm được ngữ liệu đọc hiểu để có thể đặt câu hỏi về tiếng Việt nằm trong phạm vi kiến thức ở lớp 9 là không dễ.
Như đã nêu trên, thống kê cho thấy trong 57 đề thi chỉ có 4 câu hỏi liên quan đến kiến thức tiếng Việt ở lớp 9.
Nếu theo cách đánh giá cũ thì đề thi chỉ cần đưa một ngữ liệu mới từ bên ngoài để kiểm tra một kiến thức tiếng Việt được định trước thì việc giới hạn trong chương trình lớp 9 là hoàn toàn khả thi. Ngoài ra, chương trình lớp 9 cũ có nội dung ôn tập kiến thức tiếng Việt cả cấp THCS nên càng thuận lợi.
Nhưng đối với yêu cầu đánh giá năng lực, đề thi cần phải đặt các đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ trong ngữ cảnh thực tế (văn bản đọc hiểu) thì câu hỏi về tiếng Việt phụ thuộc hoàn toàn vào ngữ liệu đọc hiểu.
Điều đó khiến cho việc giới hạn kiến thức tiếng Việt ở lớp 9 hay bất kỳ lớp nào dưới lớp 9 đều không có giá trị định hướng đúng đắn cho giáo viên và học sinh, thậm chí thí sinh có thể cảm thấy như bị lừa vì nội dung đề thi không thuộc phạm vi ra đề đã được công bố.
Nhân tiện xin có một vài gợi ý, ngoài việc nhận biết và nêu tác dụng hoặc chức năng của một số hiện tượng, đơn vị tiếng Việt mà các đề thi đã khai thác, cần cho học sinh có cơ hội nhận biết và đánh giá sắc thái nghĩa của từ ngữ và việc lựa chọn từ ngữ trong một văn bản; đôi khi có thể yêu cầu HS giải thích nghĩa của một thành ngữ, một điển cố, một số từ ngữ Hán Việt, nghĩa hàm ẩn của một câu...
Thay vì giải thích hết tất cả các từ ngữ khó trong văn bản đọc hiểu, có thể kiểm tra vốn từ ngữ của học sinh bằng cách yêu cầu các em giải thích nghĩa của một số từ ngữ khó, tìm từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa với những từ ngữ đó.
Các yêu cầu này vừa đáp ứng định hướng đánh giá kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh vừa có thể áp dụng cho rất nhiều văn bản đọc hiểu, giúp người ra đề thi có câu hỏi về tiếng Việt phù hợp trong nhiều tình huống.
Về Viết, thống kê trên cho thấy đây là phần các đề thi bám sát chương trình lớp 9 hơn cả. Tuy vậy, vẫn có 14 đề thi yêu cầu viết bài nghị luận xã hội không thuộc chương trình lớp 9 mà ở lớp dưới.
Trong từng năm, để giảm nhẹ áp lực ôn thi cho học sinh, mỗi tỉnh, thành phố có thể có giới hạn phạm vi ra đề thi ở một số loại, thể loại văn bản đọc hiểu và một số kiểu bài viết, nhưng không nên giới hạn phạm vi ra đề ở chương trình của một lớp, kể cả lớp 9.
Cần nói rõ, giới hạn phạm vi ra đề thi dù sao cũng không nên coi là cách làm đáng được khuyến khích. Nó chỉ là giải pháp tình thế khi học sinh chưa thực sự quen với chương trình và SGK mới.
Tóm lại, cần phải có định hướng đúng đắn, phù hợp hơn về phạm vi ra đề thi cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và cho cả kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10. Không nên lấy thói quen đánh giá từ chương trình cũ để triển khai đánh giá theo chương trình mới.
Nếu có tài liệu tập huấn được ban hành chính thức nào định hướng phạm vi ra đề thi tập trung ở lớp cuối cấp thì cần xem xét điều chỉnh, ít nhất là đối với môn Ngữ văn và tôi nghĩ là không chỉ đối với môn Ngữ văn, vì định hướng này không đúng với tinh thần đánh giá năng lực học sinh của Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018.
Đề thi tốt nghiệp THPT và đề thi vào lớp 10 của các tỉnh, thành phố năm nay đã chứng minh định hướng này cũng không phù hợp với thực tế.