Con gái con trai đều nghịch như quỷ sứ.
(Xóm đê)
Đó là những người lính, họ đã có một thời tuổi hồn nhiên tinh nghịch, cùng thỏa thuê đùa giỡn bên nhau. Vào lính rồi nhưng trong họ vẫn còn lưu giữ chút nghịch ngợm này. Không chỉ có người lính mới được các nhà thơ phản ánh trong thơ của mình mà những người hậu phương cũng được các nhà thơ chú ý. Bởi chính người vợ, người mẹ… lại là nguồn động viên lớn cho những người cầm súng.
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Ngôn ngữ thơ bình dị, nhưng lại lột tả được chiều sâu của nỗi nhớ, tâm trạng chờ đợi chồng của những người vợ. Câu thơ không ồn ào mà sâu lắng thiết tha, đọng lại trong lòng người đọc. Trong thơ nói về người lính lẽ đương nhiên không thể thiếu là các nhà thơ nói về cách tỏ tình của ngưới lính, họ có cách nói của con nhà lính. Cũng từ ý của câu ca dao:
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Các anh lính đã tìm ra một cách nói riêng của mình:
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu
(Màu tím hoa sim – Hữu Loan)
Câu thơ man mác chất ca dao nhưng lại sâu lắng hơn, xúc động hơn, và phảng phất một chút buồn.
Trong các bài thơ viết về hai cuộc kháng chiến, nhà thơ Tố Hữu là người đã sử dụng khá nhiều ca dao vào thơ của mình. Điều này khiến thơ ông trở nên dễ thuộc, dễ nhớ và gần gũi với những người tham gia kháng chiến hơn.
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
(Bầm ơi)
Những vần thơ của Tố Hữu như là một sự khẳng định thành công cách vận dụng cách nói tục ngữ, thành ngữ… vào trong thơ ca kháng chiến khi thể hiện hình tượng người lính. Đây chính là sự đóng góp giá trị về mặt nghệ thuật của thơ ca thời kì 1945 – 1975.