Đời Cảnh Thống, ông giữ chức Đô ngự sử đài, cùng thượng thư Lễ bộ Đàm Văn Lễ lĩnh mệnh phò lập vua Lê Túc Tông. Nhưng Túc Tông yểu mệnh, tháng 6 lên ngôi thì tháng 12 băng hà khi mới 17 tuổi. Lê Uy Mục kế vị, từ đây bắt đầu một câu chuyện bi thương và oan khuất của vị Trạng nguyên xứ Kinh Bắc.
Do việc vua Uy Mục bắt tự xử, con cháu Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật đã phải cải sang họ Đỗ. Đến đời Hồng Thuận, vua Tương Dực biết ông chết oan, bèn truy phong tước Bá, và tặng lá cờ thêu 3 chữ “Trung Trạng nguyên”. Vua còn cho dân địa phương lập miếu thờ làm thành hoàng. Hiện ở quê có đền thờ và tấm bia đá ghi sự nghiệp của ông.
Nghiêm Hoản (còn có tên là Nghiêm Viên), sau được vua Lê Thánh Tông đổi tên là Nghiêm Viện, quê xã Phùng Ninh Giang, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Bồng Lai, Quế Võ - Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Bính Thìn (1496) đời vua Lê Thánh Tông.
Sự nghiệp của Nghiêm Hoản không được ghi chép nhiều, nhưng theo “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, sau khi thi đỗ ông được vua gả công chúa. Tuy nhiên, khi trở về nhà thì bị vợ đánh thuốc độc mà chết. Bi kịch đó khiến Nghiêm Hoản trở thành vị Trạng nguyên duy nhất trong lịch sử bị đầu độc.
Văn bia Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508) đời vua Lê Uy Mục đề danh Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh. |
Nguyễn Giản Thanh sinh năm 1482 người làng Ông Mặc huyện Đông Ngàn (nay là Từ Sơn - Bắc Ninh) là người rất điển trai. Kỳ thi Hội, Nguyễn Giản Thanh chỉ xếp thứ hai, sau Hứa Tam Tỉnh.
Đến khi thi Đình, Hoàng Thái hậu ngồi xem thấy Nguyễn Giản Thanh điển trai, lại người cùng quê nên Thái hậu chỉ tay hỏi vua Lê Uy Mục: “Chắc đó là Trạng nguyên?”. Đó cũng là nguyên nhân xuất phát của câu nói xưa “Trạng Me đè Trạng Ngọt”. Tuy vậy, nếu xét về quy chế nghiêm ngặt của các khoa thi, đặc biệt khi vua chuẩn y danh hiệu Tam khôi thì có lẽ oan uổng cho Nguyễn Giản Thanh.
Nguyễn Giản Thanh làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc, được cử đi sứ nhà Minh. Khi trở về, được thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá. Khi mất được tặng tước hầu.
Nguyễn Thiến sinh năm 1495 tại làng Canh Hoạch (Thanh Oai - Hà Nội). Ông là bạn học thân thiết của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được Trạng Trình đánh giá là người thành tín, chính trực, hiểu biết. Năm Nhâm Thìn (1532) đời vua Mạc Thái Tông, Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên, trước giữ chức Thượng thư bộ Lễ, sau giữ chức Thượng thư bộ Lại.
Trong cuộc chiến với nhà Lê, khi ông rơi vào tình thế cấp bách đã không kịp hỏi kế Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội dẫn gia quyến trốn vào Thanh Hoa xin hàng nhà Lê. Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nhà Mạc đã làm bài thơ gửi cho Nguyễn Thiến với ý thuyết phục ông trở về nhà Mạc.
Khu lăng mộ Trạng nguyên Nguyễn Thiến. |
Nguyễn Thiến xem thư, trong lòng bứt rứt. Năm 1557, Nguyễn Thiến mất ở Thanh Hoá. Các con ông là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn cùng nhau trở về theo lại nhà Mạc.
Phạm Trấn sinh năm 1523, quê xã Lam Kiều, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Cầu, xã Phạm Trấn, Gia Lộc - Hải Dương). Tương truyền, vì cha Phạm Trấn mất sớm nên người mẹ phải tảo tần để con được học hành.
Thầy đồ cám cảnh trước cảnh nghèo khó ấy nên không lấy tiền học. Không có tiền mua giấy bút, Phạm Trấn ra bãi tha ma lấy ván thôi (gỗ quan tài sau cải táng) làm bảng viết chữ.
Khoa thi năm Bính Thìn (1556) đời vua Mạc Tuyên Tông, Phạm Trấn ứng thí đỗ Trạng nguyên. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ chức quan và đến khi nhà Mạc bị đánh bật khỏi Thăng Long, nhà Lê mời ông ra làm quan nhưng ông cự tuyệt, về mở trường ở làng Ngọc Nhị, xã Cẩm Đái, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Cẩm Lĩnh, Ba Vì - Hà Nội).
Hai trụ đá khắc chữ Hán - nơi xưa kia Trạng nguyên Trịnh Tuệ dạy học. |
Trạng nguyên cuối cùng: Trịnh Tuệ sinh năm 1704 ở Biện Thượng, nay là xã Vĩnh Hùng (Vĩnh Lộc - Thanh Hóa). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thần đồng, có tài liếc mắt qua một lượt đã thuộc ngay mười hàng chữ, hàng chục năm sau vẫn đọc lại vanh vách.
Khoa Bính Thìn (1736), ông tham gia ứng thí đỗ đầu thi Hội, vào thi Đình lại đứng đầu và trở thành vị Trạng nguyên cuối cùng của lịch sử khoa bảng Việt Nam. Trịnh Tuệ được phong Đông các đại học sĩ, Thượng thư bộ Hình, sau lại được thăng Tham tụng.
Năm 1741, Trịnh Tuệ được bổ làm Tế tửu Quốc Tử Giám, sau về quê mở lớp dạy học. Khi ông qua đời, các học trò đã xây dựng nhà thờ để tưởng nhớ thầy. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã đến thăm đền thờ và quyên góp tiền để sửa chữa, khắc biển treo trước đền là “Trạng nguyên từ”.