Nếu lịch sử của nam châm không được biết rõ, sẽ rất khó để đưa ra các quyết định điều khiển trong tương lai để tạo ra chùm tia cụ thể mà bạn cần cho một thí nghiệm”, nhà khoa học Ryan Roussel cho biết.
Mô hình của nhóm nghiên cứu xem xét một tính chất quan trọng của nam châm được gọi là độ trễ. Nhà khoa học Auralee Edelen thuộc SLAC cho biết: “Độ trễ khiến nam châm điều chỉnh khó khăn hơn.
Các cài đặt tương tự trong một nam châm với kích thước chùm tia ngày hôm qua có thể ảnh hưởng đến kích thước chùm tia khác ngày hôm nay do hiện tượng trễ”.
Mô hình mới của nhóm giúp loại bỏ nhu cầu đặt lại nam châm thường xuyên. Đồng thời, có thể cho phép cả người vận hành máy và các thuật toán điều chỉnh tự động nhìn thấy trạng thái hiện tại của chúng.
10 năm trước, nhiều máy gia tốc không cần tính đến độ nhạy đối với lỗi trễ. Tuy nhiên, theo ông Roussel, khi các phương tiện chính xác hơn như LCLS-II của SLAC được đưa lên mạng, việc dự đoán từ độ trễ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, Mô hình trễ cũng có thể giúp các cơ sở máy gia tốc nhỏ hơn chạy những thí nghiệm có độ chính xác cao hơn.
Nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ triển khai phương pháp này trên toàn bộ nam châm tại một cơ sở máy gia tốc. Đồng thời, chứng minh sự cải thiện về độ chính xác dự đoán trên một máy gia tốc hoạt động.