Mục tiêu, kết quả đạt được của các chương trình góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường trong nước, phát triển ra thị trường quốc tế với các ngành hàng có lợi thế tiềm năng; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhóm nghiên cứu mạnh, gia tăng số lượng các công bố quốc tế, đăng ký sáng chế, cải thiện chỉ số GII; ưu tiên phát triển các mô hình sinh kế gắn với đặc thù của vùng, địa phương, có hệ thống các giải pháp công nghệ gắn với khai thác tài nguyên và chế biến đặc sản của vùng, miền và gắn với chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đến nay Bộ KHCN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 16 chương trình KHCN quốc gia, bao gồm 2 chương trình thực hiện dưới hình thức nhiệm vụ KHCN đặc biệt; phê duyệt 17 Chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021 2025 và 2021-2030 thuộc 10 nhóm lĩnh vực ưu tiên: Khoa học xã hội và nhân văn; Khoa học tự nhiên; Công nghiệp; Nông nghiệp; Y tế; Tài nguyên và môi trường; An ninh, quốc phòng; Nghiên cứu ứng dụng KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, dân tộc, vùng, địa phương;
Nghiên cứu công nghệ công nghiệp 4.0, công nghệ cao, công nghệ thông tin phục vụ xây dựng Chính phủ số và đô thị thông minh, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ lưu trữ năng lượng, công nghệ vũ trụ, công nghệ bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene; nghiên cứu định hướng đổi mới sáng tạo gắn với doanh nghiệp và thị trường khoa học và công nghệ.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá, trong giai đoạn 2016-2020, ngành KHCN, trong đó có các chương trình KHCN quốc gia, đã đóng góp quan trọng vào chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), tốc độ tăng năng suất lao động, tỉ trọng sản phẩm công nghệ cao trong xuất khẩu; đạt được những bước tiến đáng ghi nhận về chỉ số đổi mới sáng tạo, công bố nghiên cứu khoa học quốc tế, sở hữu trí tuệ, tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tương đối đều khắp…
Ngành KHCN đã triển khai một số chương trình lớn về khoa học xã hội, chính trị, kinh tế, đáng chú ý có một số công trình tiêu biểu, đồ sộ về tầm vóc tri thức và ảnh hưởng đã được thực hiện như Bộ Lịch sử Việt Nam (Quốc sử), Bộ Địa chí quốc gia Việt Nam (Quốc chí), Bách khoa toàn thư Việt Nam…
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu một số hạn chế, bất cập, vướng mắc mà ngành KHCN cần nhìn nhận thẳng thắn, đầy đủ.
Trước hết, nguồn lực dành cho các chương trình KHCN quốc gia rất lớn nhưng vẫn thiếu mối liên kết có tính định hướng, hướng dẫn, bổ trợ, đỡ đầu đối với các chương trình, nhiệm vụ KHCN các cấp bên dưới; cần chú ý hơn nữa đến cơ cấu các chương trình KHCN quốc gia thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, công nghệ.
Bộ KHCN đã có nhiều nỗ lực nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những bất cập, hạn chế, vướng mắc về cơ chế quản lý, tài chính trong khoa học, vẫn còn rất chặt chẽ, chưa sẵn sàng chấp nhận rủi ro ...
Việc công khai, minh bạch, giám sát đồng đẳng các đề tài nghiên cứu khoa học còn ít.
Các sản phẩm công nghệ quốc gia chưa được mở rộng phạm vi đánh giá theo hướng dành cho mọi sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, không phân biệt là sản phẩm của các trường, viện nghiên cứu Nhà nước hay viện nghiên cứu tư nhân, doanh nghiệp; cùng với đó là cơ chế tôn vinh, trao giải thưởng danh dự Nhà nước cho các tác giả, nhóm tác giả có các kết quả nghiên cứu khoa học nổi bật.
Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ KHCN khẩn trương hơn nữa trong triển khai các chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021-2025, bảo đảm chất lượng, đúng quy định; đồng thời lưu ý một số điểm.
Các chương trình KHCN quốc gia giai đoạn 2021-2025 cần được cơ cấu lại theo hướng các mục tiêu, nhiệm vụ, kết quả, tiêu chí đánh giá phải được lượng hoá ngày càng rõ ràng, chi tiết; có sự phổi hợp với các chương trình, nhiệm vụ KHCN các cấp, bám sát Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030.
Cơ chế đánh giá thường xuyên, định kỳ các chương trình KHCN quốc gia cần tiếp tục được hoàn thiện, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Bộ KHCN mạnh dạn tổ chức các nhóm nghiên cứu mạnh trong một số chương trình KHCN quốc gia, từng bước tháo gỡ cơ chế quản lý, tài chính trong khoa học; có các cơ chế để doanh nghiệp mạnh dạn tham gia vào các chương trình KHCN quốc gia, kết hợp với các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước.
Đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, Phó Thủ tướng lưu ý kết quả các chương trình KHCN quốc gia cần đưa ra những kiến nghị thật cụ thể, tổ chức phương thức để lan toả kết quả nghiên cứu, tạo xung lực đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn trong phát triển đất nước; triển khai nghiên cứu, đề xuất cụ thể về cơ chế quản lý tài chính KHCN; đẩy mạnh nghiên cứu về văn hoá.
Theo Phó Thủ tướng, vai trò của KHCN càng ngày càng thấy rõ hơn trong phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Bộ KHCN phải thực hiện mạnh mẽ hơn nữa việc công khai, minh bạch mọi khâu trong thực hiện chương trình, nhiệm vụ KHCN; kiên trì, thuyết phục trong tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế quản lý, tài chính khoa học.
"KHCN không phải là độc quyền của Nhà nước hay của viện này, viện kia mà cởi mở cho toàn giới khoa học. Các kết quả, đề tài nghiên cứu cần được minh bạch, công khai và gắn với trách nhiệm giải trình của các nhà khoa học", Phó Thủ tướng nói.