Thiếu sư Đặng Đức Siêu: Tài tham mưu - Đức sư bảo

16/02/2024, 09:09
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Đặng Đức Siêu chính là người hiến kế hỏa công để Lê Văn Duyệt đốt hết chiến thuyền của quân Tây Sơn ở đầm Thị Nại, Bình Định năm 1800.

Đến tháng 5, năm 1801, quân Nguyễn chiếm được đô thành Phú Xuân, vua Quang Toản phải chạy ra Bắc. Mùa Đông năm ấy, chúa Nguyễn Ánh thăng cho ông làm bộ Lễ, ông cố từ chối nhưng chúa không cho.

Năm 1802, chúa Nguyễn Ánh bàn việc đánh ra ngoài Bắc, Đặng Đức Siêu cùng Trần Văn Trạc khuyên chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu để chính danh.

Tờ sớ nêu lý do rằng: “Nhà Lê từ vua Lê Chiêu Thống chạy sang nước Thanh, đi không trở về, đất Bắc Hà đã bị Tây tặc (ý nói quân Tây Sơn) chiếm được, huống chi quân nhà vua từ khi lấy lại cựu kinh đến nay, thần dân nhà Lê không từng có một người hưởng ứng việc nghĩa để đánh giặc, thì nhà Lê không nổi lên được nữa, đã có thể biết.

Nay ta diệt Tây Sơn, có cả đất ấy, là lấy ở Tây Sơn, không phải là lấy ở nhà Lê. Sau khi việc yên tự có xử trí duy có việc thương dân đánh kẻ có tội, cốt ở có danh hiệu, có ứng lòng người, thuận lòng trời trước hết phải đổi năm tháng. Nay đi đánh ngoài Bắc, mà còn dùng niên hiệu nhà Lê, sợ người ngoài Bắc bảo ta là mượn tiếng phù Lê, chi bằng lên chính ngôi vua, đổi niên hiệu, tuyên bố nghĩa lớn cho cả nước biết, thì ta được nước là chính nghĩa, không ai có thể dị nghị dược”.

Chúa Nguyễn Ánh cho là phải, bèn lấy năm ấy đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên (1802), đem việc đánh ngoài Bắc bố cáo trong ngoài. Năm ấy cả nước định xong cả, lại làm lễ cáo miếu việc võ thành công. Đời sau truyền lại rằng, bài hát “Hồi loan cửu khúc” là Siêu soạn ra, lời bài hát ấy bằng tiếng Việt (trong khi nhiều bài nhạc Lễ khác đều có lời bằng chữ Hán). Đến khi các sử quan nhà Nguyễn chép bộ “Đại Nam liệt truyện” là vào thời vua Tự Đức, chép rằng: “Bài hát này, hiện nay người làm nghề hát ở Thanh, Nghệ, còn truyền tụng”.

Lúc bấy giờ tế Giao, tế các miếu, tế xã tắc, đặt lễ làm nhạc đổi mới cả, ông theo rõ việc cũ, điển lễ lớn ở triều đình, phần nhiều đều tham gia soạn định. Do đó, vua Gia Long rất trọng ông, thường được vua đặc biệt chú ý.

Mùa Xuân năm 1803, khi vua Gia Long tấn phong vợ cả vua là bà Tống Thị Ngọc Lan làm Vương hậu, Đặng Đức Siêu phụng mệnh sung làm sứ bưng sách.

Đức làm Sư bảo

Năm Gia Long thứ 4 (1805), Đặng Đức Siêu được vua Gia Long sai kiêm sung chức dạy bảo Hoàng tử. Thực lục về vua Minh Mạng viết: “Thánh Tổ Nhân Hoàng đế nuôi đạo chính thành công chí thánh, được Siêu giúp ích rất nhiều”.

Năm thứ 6, ông lại được sai kiêm quản Khâm thiên giám, năm ấy ông biên soạn làm tập “Thiên Nam thế hệ”, bắt đầu chép từ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế (tức chúa Nguyễn Kim), đến Duệ Tông Hiếu Định Hoàng đế (chúa Nguyễn Phúc Thuần). Lại truy trở lên chép từ Hoành Quốc công (Nguyễn Công Duẩn) đến Trừng Quốc công (Nguyễn Văn Lưu), để biết rõ Triệu Tổ từ đâu sinh ra, sau chép Hiếu Khang Hoàng đế (chúa Nguyễn Phúc Luân) để biết rõ bản thân vua từ đâu sinh ra. Trước sau hơn 200 năm, phàm thế thứ, công nghiệp, cho đến ngày sinh, ngày kỵ, và phương hướng lăng tẩm đều chép đủ cả.

Năm Gia Long thứ 8 (1809), triều Nguyễn bắt đầu đặt chức Thượng thư sáu bộ, vua trao cho Siêu chức Thượng thư bộ Lễ. Đến năm sau, là năm Canh Ngọ (1810), ông qua đời ở nơi làm quan, thọ 60 tuổi, được vua tặng chức Tham chính, ban cho áo gấm, đoạn, đồ khâm liệm và quan tài, cấp phu coi mộ.

Các sử gia nhà Nguyễn đánh giá: “Đặng Đức Siêu học vấn rộng khắp, văn chương uẩn súc và thanh nhã, đức hạnh tiết tháo, thực là nhân vật bản triều phải tôn trọng. Gặp phải chiến tranh loạn lạc, giấu giếm ẩn náu, hơn 30 năm, được vẹn danh tiết. Buổi đầu trung hưng, giữ việc lễ của nước, kiêm sung làm thầy dạy học của vua, công ấy to lắm”.

Thời vua Gia Long, Cần Chánh điện học sĩ kiêm Thái thường tự khanh Nguyễn Viên, nguyên Giải nguyên đời Lê và là cháu Hương cống Nguyễn Quỳnh cũng đã khen ông rằng: “Quan bộ Lễ là Đặng Đức Siêu là người khoan hậu trưởng giả, quan bộ Binh là Phạm Ngọc Uẩn là người tâm Phước tín thần”.

Đến thời vua Tự Đức, năm 1852, Đặng Đức Siêu được đưa vào thờ ở miếu Trung hưng công thần. Phu nhân của Đặng Đức Siêu là bà Nguyễn Thị Ngữ, cũng được chép ở truyện liệt nữ, vì nêu gương tiết nghĩa.

Bộ sách truyện các danh thần thời Nguyễn “Đại Nam liệt truyện” viết về bà: “Bà là phu nhân của Thiếu sư Đặng Đức Siêu. Năm 15 tuổi, lấy Thiếu sư đẻ được một con trai là Thiêm và một con gái. Gặp loạn Tây Sơn, Thiếu sư bỏ nhà vào Gia Định, phu nhân tuổi mới 21, mong chồng giữ chí, dạy bảo con cái. Tư đồ nhà Tây Sơn (chỉ Võ Văn Dũng) và Thiếu phó (chỉ Trần Quang Diệu) tranh nhau muốn lấy, phu nhân thề không đổi tiết. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827); nêu khen là tiết phụ, bộ bàn nên liệt vào hạng ưu; xuống sắc cho bức biển có 4 chữ: “Đông quản phương tiên” (quản bút đo mức tiếng thơm) dựng nhà treo biển ngạch cấp cho bạc và lụa. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ban cấp cho sâm quế, lụa màu. Năm thứ 7 (1847) bà mất, thọ 82 tuổi, được vua hậu cấp cho đoạn màu, vải, lụa và tiền”.

Con của ông bà là Đặng Đức Thiêm, cũng làm đến quan to. Anh của ông là Đặng Đức Huy cũng là người ham học, làm thơ quốc âm rất hay. Đầu năm Gia Long, ông Huy làm quan đến chức Đốc học Bình Định, tuổi già về hưu trí. Đầu thời vua Minh Mạng ông cũng được dự thưởng bạc lụa về thọ quan.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/thieu-su-dang-duc-sieu-tai-tham-muu-duc-su-bao-post671753.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/thieu-su-dang-duc-sieu-tai-tham-muu-duc-su-bao-post671753.html
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Thiếu sư Đặng Đức Siêu: Tài tham mưu - Đức sư bảo