Lúc này, HĐXX công bố theo hồ sơ số tiền thuế thu nhập cá nhân đóng chỉ hơn 6 triệu đồng.
Tại phần tranh luận, đại diện của bà T cho rằng giao dịch chuyển nhượng giữa bà Tr và vợ chồng bà A là vi phạm điều cấm của pháp luật. Cụ thể, chuyển nhượng 15 tỷ nhưng chỉ ghi 200 triệu đồng, kê khai giá trên hợp đồng thấp hơn giá thực tế là hành vi không trung thực, làm giảm số thuế phải nộp, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước 370 triệu đồng. Đây là hành vi trốn thuế bị nghiêm cấm theo khoản 5 Điều 143 Luật Quản lý thuế 2019....
Cạnh đó, theo bà T, giao dịch chuyển nhượng này không có thật, giả tạo. Theo Quyết định giám đốc thẩm số 03/2020/DS-GĐT ngày 16-01-2020 của TAND Tối cao có phần lập luận tương tự là giá ghi trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được công chứng là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng giá cao hơn (để chịu thuế thấp) thì sẽ bị vô hiệu. Trong vụ án này, việc ghi giá trên hợp đồng công chứng 200 triệu nhằm che dấu cho hợp đồng đặt cọc giá 15 tỷ nên phải bị vô hiệu...
Tại tòa, đại diện VKS đề nghị y án sơ thẩm
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định việc chuyển nhượng ghi giá thấp để trốn thuế nếu có sẽ được giải quyết theo Luật Xử lý vi phạm hành chính và BLHS nên việc bà T đề nghị tạm đình chỉ vụ án để chuyển cho công an là không có căn cứ.
Theo HĐXX, thời điểm hai bên chuyển nhượng thì tình trạng đất không tranh chấp, không nằm trong quy hoạch...đủ điều kiện chuyển nhượng. Việc hai bên chuyển nhượng là tự nguyện, không vi phạm điều cấm hay đạo đức xã hội nên phát sinh hiệu lực. Lúc hai bên thoả thuận chuyển nhượng chưa có quyết định hay bản án buộc bà A trả nợ cho bà T cũng như một số người liên quan nên việc cho rằng bà A tẩu tán tài sản là không có căn cứ.
Vì vậy, HĐXX phúc thẩm cho rằng bản án sơ thẩm tuyên như vậy là có căn cứ. Tuy nhiên, về phần giá trị của hợp đồng ghi 200 triệu là không phù hợp nên HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của bà T vô hiệu đối với phần này.
Từ đó, HĐXX phúc thẩm quyết định sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T, tuyên điểm 1 Điều 2 của hợp đồng chuyển nhượng (ghi giá 200 triệu) vô hiệu. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Tr, công nhận hợp đồng chuyển nhượng ở các điều còn lại, giữ nguyên GCN đã cấp cho bà Tr.
Cạnh đó, HĐXX phúc thẩm kiến nghị cơ quan thuế xem xét truy thu tiền thuế dựa trên giá thực tế chuyển nhượng là 15 tỷ đồng, nếu nhận thấy có dấu hiệu tội trốn thuế thì chuyển hồ sơ qua CQĐT xử lý theo quy định.
Chậm chân nên "nắm kẻ trọc đầu" Theo bà T, vợ chồng bà A có vay của bà 14 tỉ đồng. Do vợ chồng bà A không trả nên ngày 7-5-2021, bà T khởi kiện vợ chồng bà A tại TAND huyện Dầu Tiếng. Do hai bên thỏa thuận được nên ngày 9-6-2021, TAND huyện Dầu Tiếng ra quyết định công nhận sự thỏa thuận, vợ chồng bà A đồng ý có nghĩa vụ trả cho bà T 14 tỉ đồng. Bà T đã làm đơn yêu cầu thi hành án và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng đã ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, bà T sau đó nhận được thông tin trươc đó ngày 22-4-2021, vợ chồng bà A đã lập hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng tài sản duy nhất là nhà và đất tại huyện Dầu Tiếng cho bà Tr với giá 15 tỉ đồng. Đến ngày 12-5-2021 (tức sau ngày tòa thụ lý đơn kiện của bà T), vợ chồng bà A và bà Tr đã công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng với giá ghi trên hợp đồng là 200 triệu đồng và bà Tr đã được cấp GCN vào ngày 14-6-2021. Bà T tiếp tục khởi kiện yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, hủy GCN nhưng TAND huyện Dầu Tiếng bác... |