Các nhà trường đã phát huy tính chủ động, linh hoạt trong việc triển khai thực hiện chương trình mới. Đội ngũ giáo viên đã thực hiện hiệu quả các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Việc tổ chức quản lý đã chuyển dần theo hướng quản trị nhà trường.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã được triển khai đối với lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 6, lớp 7 và lớp 10 rộng khắp 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, đồng bộ ở tất cả các địa phương, vùng, miền (không có bất kì cơ sở giáo dục nào chưa được triển khai thực hiện). Tuy việc triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới còn có sự khác nhau giữa các địa phương, cơ sở giáo dục, nhưng về cơ bản đã đáp ứng mục tiêu và yêu cầu đổi mới.
Cùng với kết quả, báo cáo cũng làm rõ các tồn tại, hạn chế và phân tích nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này. Trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương trong việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cũng được chỉ rõ trong báo cáo.
Việc triển khai Nghị quyết 88 ban đầu gặp khó khăn do việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam; việc xây dựng chương trình đồng bộ ở tất cả các môn học, ở tất cả các lớp học mất nhiều thời gian hơn so với dự kiến ban đầu nên Quốc hội đã cho phép điều chỉnh lộ trình triển khai.
Tuy nhiên, với sự quyết liệt trong chỉ đạo của Chính phủ, sự nỗ lực chuẩn bị các điều kiện của Bộ GD&ĐT và các Bộ, ngành, địa phương, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 88 và Nghị quyết 51 đã bảo đảm tiến độ, lộ trình thực hiện theo đúng quy định của Quốc hội.
Các đại biểu tham dự buổi làm việc. |
Báo cáo của Chính phủ chỉ ra 6 bài học bài học kinh nghiệm trong triển khai thực hiện Nghị quyết 88, Nghị quyết 51 của Quốc hội.
Thứ nhất: Công tác quán triệt, tuyên truyền về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới của Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cần phải làm mạnh mẽ, triệt để và sâu rộng hơn để mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng, tin tưởng vào mục tiêu đổi mới.
Thứ hai: Công tác xây dựng kế hoạch và chuẩn bị các điều kiện xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa giáo dục phổ thông cần phải được chuẩn bị kĩ lưỡng hơn để bảo đảm tiến độ và chất lượng thực hiện.
Thứ ba: Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế cho đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông cần phải được thực hiện đầy đủ, đồng bộ và sớm hơn nữa; tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa và các điều kiện bảo đảm thực hiện hiệu quả hơn.
Thứ tư: Việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông phải được thực hiện đồng bộ từ trung ương đến địa phương, đến từng nhà trường, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và có sự hỗ trợ, đồng hành của phụ huynh. Công tác phối hợp giữa các cơ quan trung ương, địa phương cần nhịp nhàng, thường xuyên hơn để kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện; đáp ứng yêu cầu đổi mới về chất lượng và lộ trình quy định.
Thứ năm: Công tác thanh tra, kiểm tra cần được thực hiện thường xuyên hơn; kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc và đề ra giải pháp kịp thời.
Thứ sáu: Công tác truyền thông và tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực cho đội ngũ cần thực hiện sâu, rộng hơn; tạo đồng thuận trong đội ngũ nhà giáo làm động thực thúc đẩy đổi mới; tạo niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội.
Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới đã tổ chức thực hiện từ năm học học 2020-2021 đối với lớp 1; từ năm học 2021-2022 đối với lớp 2, lớp 6; từ năm học 2022-2023 đối với lớp 3, lớp 7 và lớp 10.
Công tác thẩm định sách giáo khoa và chuẩn bị các điều kiện triển khai tiếp đối với lớp 4, lớp 8 và lớp 11 từ năm học 2023-2024 đến thời điểm này cơ bản đã sẵn sàng. Sách giáo khoa lớp 5, lớp 9 và lớp 12 đang được các tổ chức, cá nhân biên soạn, thực nghiệm sẵn sàng đề nghị thẩm định, phê duyệt trong năm 2023 để chuẩn bị triển khai thực hiện từ năm học 2024-2025.
Tiếp tục đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, các giải pháp được báo cáo của Chính phủ đưa ra.
Theo đó, tiếp tục rà soát, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách để phát triển, hoàn thiện chương trình giáo dục phổ thông; nâng cao chất lượng sách giáo khoa, thí điểm xây dựng sách giáo khoa điện tử; tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục phổ thông về quy mô mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và tài chính dành cho giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức và tinh giản biên chế đối với công chức, viên chức ngành giáo dục nói chung, giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục nói riêng; bảo đảm đủ biên chế cho các địa phương đang thiếu giáo viên.
Chỉ đạo các địa phương rà soát, xác định nhu cầu đầu tư, xây dựng kế hoạch và nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2021-2025 của Đề án "Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục phổ thông". Nghiên cứu đề xuất các hạng mục, địa bàn ưu tiên đầu tư xây dựng. Bố trí các nguồn vốn Trung ương hỗ trợ các địa phương khó khăn thực hiện đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đáp ứng việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
Xem xét đưa các dự án, nhiệm vụ liên quan đến ngành giáo dục vào nhóm ưu tiên hàng đầu khi xây dựng nguyên tắc, tiêu chí phân bổ hạn mức kế hoạch vốn. Trong đó, ưu tiên mua sắm trang thiết bị dạy học, cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường học, các công trình phụ trợ thiết yếu phục vụ điều kiện dạy và học để đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, bổ sung chính sách đặc thù cho giáo dục về kinh phí chi thường xuyên để bảo đảm điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục; thực hiện các chính sách trong học tập cho học sinh, sinh viên; chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục đối với con em đồng bào dân tộc thiếu số, chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vùng sâu, vùng xa; kinh phí hỗ trợ học bổng và hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập thực hiện chính sách giáo dục đối với học sinh khuyết tật.
Chính phủ đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội các địa phương tăng cường giám sát việc thực hiện Nghị quyết 88 của Quốc hội để các địa phương thực hiện hiệu quả việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo Nghị quyết 88 và Nghị quyết 51 của Quốc hội.
Đề nghị Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo, định hướng các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin về quá trình đổi mới chương trình sách giáo khoa chính xác, khách quan tạo sự đồng thuận của xã hội về việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông triển khai thực hiện Nghị quyết 88. Chỉ đạo các đơn vị phối hợp với Bộ GD&ĐT tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương nhằm đánh giá tổng thể về triển khai thực hiện và đề xuất ra các giải pháp trong thời gian tới.