Từ bỏ mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu

17/05/2023, 07:16
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Luật Giáo dục 2019 đã khẳng định, giáo dục phổ thông thực hiện một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa.

Sau gần 10 năm triển khai công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, nền giáo dục nước ta đã từng bước chuyển từ mô hình giáo dục đồng nhất sang mô hình giáo dục phi đồng nhất. Tuy nhiên, quá trình đổi mới vẫn gặp nhiều khó khăn, cần phải từ bỏ dứt khoát với mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu.

Mô hình giáo dục đồng nhất và hệ lụy

Mô hình giáo dục đồng nhất (uniform education system) là một hệ thống giáo dục mà tất cả học sinh được học cùng một chương trình, với cùng một nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong mô hình này, không có sự phân hóa giữa các học sinh dựa trên năng lực hay khả năng học tập của từng cá nhân.

Mô hình giáo dục này bị chỉ trích ở nhiều quốc gia, vì không tôn trọng sự đa dạng của người học, không khuyến khích phát triển cá nhân. Việc cho người học nhiều lựa chọn là rất quan trọng để đảm bảo rằng, họ sẽ phát triển hết tiềm năng của mình và theo đuổi đam mê, sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào.

Ở nước ta đã có một thời kỳ dài đi theo mô hình giáo dục đồng nhất. Cả nước một loại hình trường phổ thông, một chương trình giáo dục và một bộ sách giáo khoa. Đối với giáo dục nghề nghiệp (GDNN) chủ yếu là trường trung cấp nghề, còn giáo dục đại học (GDĐH) theo mô hình truyền thống, đơn ngành, như bách khoa, sư phạm, tổng hợp, nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản...

Có thể khẳng định rằng, mô hình giáo dục đồng nhất trước đây đã đào tạo lớp thanh niên, người lao động đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, mô hình giáo dục này duy trì quá dài và ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ, nên những tư duy “tập trung”, “thống nhất” trở thành quan điểm xuyên suốt và dẫn đến hai thái cực.

Một là, không chấp nhận sự đổi mới mô hình giáo dục bởi vì sợ mất đi sự thống nhất sẽ phức tạp trong quản lý và chỉ đạo. Chẳng hạn, mô hình trường “Phổ thông vừa học vừa làm” triển khai hàng chục năm trong những năm 1980, sau một thời gian quay trở về trường phổ thông bình thường. Hay trường THPT phân ban, thí điểm lui tới rất nhiều lần, nhưng cuối cùng trở về trường THPT không phân ban.

Và hai là, triển khai một mô hình giáo dục nào đó có nhiều ưu điểm thì muốn triển khai nhanh chóng, vội vàng, không tính đến điều kiện thực tiễn. Chẳng hạn, mô hình trường học mới VNEN, mô hình này có nhiều yếu tố tiến bộ, phù hợp với định hướng đổi mới giáo dục, nhưng việc áp dụng một cách máy móc, rập khuôn, triển khai một cách ồ ạt (kế hoạch triển khai khoảng 1.000 trường, nhưng do nóng vội nên đến năm 2016, cả nước đã có hơn 5.000 trường tiểu học và THCS áp dụng). Chính sự nóng vội, rập khuôn, không lắng nghe phản ánh từ thực tiễn đã dẫn đến thất bại của mô hình trường học VNEN.

Những chuyển động tích cực

Khó khăn lớn nhất của đổi mới giáo dục là nguồn lực đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Cả nước hiện thiếu gần 100.000 giáo viên theo yêu cầu quy định của chương trình giáo dục. Nhiều địa phương thiếu trường, lớp để dạy 2 buổi/ngày, thiết bị dạy học còn thiếu và nhất là thiếu ngân sách cho miễn học phí (đến cấp THCS) và miễn phí sách giáo khoa, nên việc đi học của học sinh con gia đình nghèo, gia đình khó khăn vẫn còn hạn chế.

Từ khi nước ta chuyển sang mô hình kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu nguồn nhân lực ngày càng đa dạng về lĩnh vực và trình độ đào tạo, nên các nhà trường, từ giáo dục phổ thông, GDNN, đến GDĐH từng bước chuyển sang mô hình giáo dục đa dạng hơn về loại hình trường, lớp và phương thức đào tạo.

Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ngày 4/11/2013, quá trình chuyển đổi này được thúc đẩy nhanh và hiệu quả hơn.

Kết quả là, từng bước xây dựng nền giáo dục phi đồng nhất, đa dạng các loại hình, mô hình trường lớp học và phương thức giáo dục, đào tạo. Chương trình giáo dục phổ thông được Bộ GD&ĐT ban hành theo Thông tư 32/2018 đã xác định: Giáo dục phổ thông chia làm 2 giai đoạn: Giáo dục cơ bản (từ lớp 1 – lớp 9), định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 – lớp 12).

Luật Giáo dục 2019 đã khẳng định, giáo dục phổ thông thực hiện một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa. Và thực tiễn đến nay đã có 4 bộ sách giáo khoa, được xuất bản theo hình thức xã hội hóa. Nhà trường được quyền xây dựng kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học, phương án phân hóa học sinh phù hợp với điều kiện từng trường.

Ngoài mô hình trường phổ thông bình thường, hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố. Các trường phổ thông quốc tế, trường song ngữ, trường tiên tiến hội nhập quốc, trường chất lượng cao... cũng được triển khai ở nhiều địa phương.

Việc tuyển sinh ĐH, GDNN do các trường tự chủ với nhiều phương thức xét tuyển theo xu hướng của thế giới và đa dạng hóa giáo dục sau phổ thông (mô hình đào tạo nghề 9+ của trường cao đẳng nghề, đào tạo liên thông ĐH).

Điều này đã giảm áp lực cho thi tốt nghiệp THPT và giúp học sinh có nhiều lựa chọn hơn. Bằng chứng là năm 2022 có khoảng 100.000 thí sinh trúng tuyển ĐH đợt 1 nhưng không đăng ký nhập học để tham gia học nghề, xuất khẩu lao động hoặc lao động trực tiếp.

Đổi mới giáo dục vẫn còn nhiều khó khăn

Từ bỏ mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu ảnh 1

Thí sinh trao đổi sau khi kết thúc bài thi môn Ngữ văn kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2022 - 2023 tại TPHCM. Ảnh: INT

Đổi mới là rất khó bởi vì nhiều công đoạn của giáo dục, nhiều thói quen đã ăn sâu đối với giáo viên và nhiều người. Chẳng hạn, giáo dục phổ thông đã và đang thực hiện một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa, nhưng thói quen của giáo viên vẫn coi “sách giáo khoa như một chương trình cụ thể”.

Để sử dụng tốt sách giáo khoa cần có sách hướng dẫn giáo viên. Điều này dẫn đến hạn chế trong phát triển năng lực của giáo viên. Việc thực hiện nhiều bộ sách giáo khoa sẽ có khó khăn cho học sinh khi chuyển từ trường này sang trường khác (khi trường mới áp dụng bộ sách giáo khoa khác với trường cũ), nên dư luận trong xã hội, kể cả nghị trường Quốc hội cũng đã có ý kiến đề xuất nên dùng một bộ sách giáo khoa thống nhất.

Tư duy văn mẫu đã đồng phục hóa tư duy học sinh, cũng là một cản trở trong đổi mới giáo dục hiện nay. Văn mẫu đã gây ra những điểm mù trong nhận thức của học sinh, khiến các em mất khả năng phân biệt đâu là kiến thức, đâu là sáng tạo cần có khi viết bài.

Văn mẫu đã gây tê liệt rồi dần giết chết năng lực sáng tạo của học sinh. Sách văn mẫu, bài tập mẫu, sách luyện thi... được bán tràn lan. Việc dạy học, kiểm tra, đánh giá của giáo viên nhiều khi dựa vào văn mẫu, bài tập mẫu nên buộc học sinh học thuộc lòng văn mẫu, thiếu đi sự phản biện và sáng tạo.

Tư duy học để thi, để vào trường top, trường điểm, chứ không phải học để nâng cao kiến thức, kỹ năng, năng lực và phẩm chất. Mặc dù, ngành Giáo dục đã có nhiều giải pháp giảm áp lực thi cử, nhưng việc đánh giá học sinh vẫn coi trọng điểm số nên học sinh phải học thêm rất căng thẳng.

Việc xét tốt nghiệp THPT có sự tham gia điểm học bạ và xét tuyển ĐH bằng học bạ góp phần làm cho giáo dục thiếu trung thực, vì giáo viên cho điểm “nới hơn” để có lợi cho học sinh.

Cá nhân hóa giáo dục

Từ bỏ mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu ảnh 2

Học sinh lớp 12 Hà Nội làm bài khảo sát trước Kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023. Ảnh: INT

Tài năng của con người cực kỳ đa dạng. Con người có những năng khiếu hoàn toàn khác nhau. GS Howard Garner (Mỹ), người đã sáng tạo ra thuyết “Đa thông minh”, cho rằng, một người có thể tiềm ẩn một hoặc nhiều trí thông minh khác nhau, đó là: Lý luận toán học, ngôn ngữ, âm nhạc, không gian, vận động thân thể, thiên nhiên, giao tiếp giữa cá nhân và hiểu rõ nội tâm cá nhân.

Lý thuyết của Howard Gardner đã đặt ra nhiều chiến thuật mới về cách giảng dạy và học tập, học sinh nhờ đó có nhiều cơ hội khám phá ra các mức khác nhau về thông minh và được giúp đỡ để phát triển cả những năng khiếu còn tiềm ẩn.

Theo Howard Gardner, trường học nên giúp đỡ học sinh tham gia học hỏi, phát triển nhiều loại thông minh, tham gia nhiều loại sinh hoạt học đường và xã hội, khiến cho học sinh phát triển nhiều năng lực để sau này phục vụ xã hội theo nhiều lĩnh vực khác nhau.

Kết quả, Phần Lan 6 năm liền là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới giai đoạn 2017 - 2022, theo “Báo cáo Hạnh phúc thế giới” dưới sự bảo trợ của tổ chức Sáng kiến toàn cầu Liên Hợp Quốc. Đây chính là trái ngọt của một nền giáo dục đa dạng, khai phóng, mà ở đó, mỗi học sinh được là chính mình, được lựa chọn con đường riêng để phát triển năng lực bản thân.

Vì vậy, cần từ bỏ mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu trong giáo dục. Đa dạng hóa mô hình trường phổ thông, xây dựng trường học thông minh, trường học hạnh phúc, trường học toàn diện… Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH cũng cần đa dạng, liên thông, đào tạo đa ngành như các nước là điều cần thiết để tạo ra nguồn nhân lực đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Cá nhân hóa giáo dục là câu trả lời cho hiện tại và tương lai để xây dựng một nền giáo dục học tập suốt đời.

Với quan điểm giáo dục phi đồng nhất, xã hội tăng cường phản biện, nhưng cũng cần cởi mở hơn với sự đổi mới đối với giáo dục và đào tạo.

Nhà nước, người dân đầu tư nhiều nguồn lực cho giáo dục, mở rộng diện miễn học phí và miễn phí sách giáo khoa, khi đó mới xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, hội nhập với khu vực và thế giới.

Dạy và học phù hợp với xu hướng nghề nghiệp của học sinh

Trong những năm gần đây, việc phân luồng học sinh sau THCS và THPT có nhiều tiến bộ. Kết quả tuyển sinh năm 2022 cho thấy, chỉ có 48% học sinh tốt nghiệp THPT trúng tuyển nhập học ĐH, 52% còn lại tham gia học nghề, xuất khẩu lao động, du học hoặc trực tiếp lao động ở các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Việc tuyển sinh nghề năm 2022 đạt kết quả tốt, có 2,48 triệu học sinh, học viên tham gia học nghề, trong đó có 236.000 sinh viên cao đẳng nghề và 312.000 học sinh trung cấp nghề, còn lại khoảng 1,9 triệu học viên tham gia các chương trình nghề ngắn hạn.

Điều này cho thấy, nhiều học sinh đã sớm xác định hướng đi của mình, phù hợp với khả năng và điều kiện kinh tế của bản thân, chứ không tập trung vào con đường vào ĐH.

Đồng thời, mới đây, một số địa phương như Nghệ An, qua khảo sát nguyện vọng học sinh lớp 12 cho thấy, nhiều học sinh không có nguyện vọng xét tuyển ĐH, cá biệt có trường gần như 100% học sinh thi THPT chỉ để xét tốt nghiệp.

Từ thực tế này, các nhà trường có các giải pháp phân hóa học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu của học sinh theo nhiều hướng khác nhau như: Vào ĐH, đi du học, học nghề, tham gia lao động.

Nhà trường đầu tư dạy và học để nâng cao chất lượng các môn Giáo dục Kinh tế và Pháp luật, Công nghệ, Tin học… Tăng cường hoạt động trải nghiệm, tạo điều kiện cho học sinh gắn học tập với giải quyết các vấn đề cuộc sống và qua đó giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Từ bỏ mô hình giáo dục đồng nhất và tư duy văn mẫu