Tọa lạc trên thế đất được ví như 'quần sơn la bái', Bình Vọng là một trong những làng khoa bảng tiêu biểu suốt chín thế kỷ nho học.

Không chỉ sản sinh nhiều bậc hiền tài, làng còn lưu giữ những dấu tích rực rỡ của một thời vàng son chữ nghĩa.
Bình Vọng, thường gọi là làng Bằng, vốn thuộc xã Bình Vọng, tổng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông xưa, nay thuộc địa phận xã Thường Tín, Hà Nội. Nơi đây tọa lạc trên thế đất với núi non chầu về theo quan niệm phong thủy truyền thống, biểu tượng của sự thịnh vượng và phát triển lâu đời.
Theo nhiều sử liệu, ngay từ đầu thế kỷ 15, Bình Vọng đã nổi tiếng với rượu sen tiến vua, được Nguyễn Trãi ghi chép trong Dư địa chí. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng cho biết chợ Bình Vọng là một trong những chợ lớn của phủ Thường Tín. Đến nay, dân gian vẫn truyền câu ca: “Xứ Nam nhất chợ Bằng, Vồi”, cho thấy vị thế giao thương sầm uất của vùng đất này.
Truyền thuyết địa phương kể rằng, ở huyện Tống Sơn (Thanh Hóa) xưa có một người họ Đỗ tài năng, mưu lược. Vào thời Lý, khi triều đình giao phó ông nhiệm vụ dẹp loạn, trên đường trở về qua Bình Vọng, gặp trận cuồng phong, ông đã hi sinh. Dân làng thương kính dựng miếu tranh tre để thờ.

Sau này, vua nhà Lý trên đường đi đánh giặc Cự Long (Ái Châu) ghé qua miếu, thấy rất linh ứng, nên cầu âm phù và chiến thắng trở về. Khi khải hoàn, nhà vua cho xây lại miếu bằng ngói, ban biển vàng đề “Linh ứng điện” để ghi nhớ công đức vị thần.
Đến thời Trần, một công chúa đoan trang, hiền hậu được giao trông coi vùng Bình Vọng. Bà xin vua miễn thuế cho dân và cho đào ngòi Nam Lang ở phía Nam làng, mở lối thuận tiện cho thuyền bè. Ngôi chùa cổ trong làng - nơi vua thường lui tới cầu nguyện - được đặt tên là Báo Quốc vì sự linh ứng của chốn thiền môn.
Mỗi lần công chúa và vua cha viếng chùa, thuyền ngự đi qua thường có mây ngũ sắc che phủ, khiến một vị cao tăng nhận định: “Ấy là điềm Thánh nữ”. Sau khi công chúa qua đời, dân làng xin lập đền thờ; vua ban sắc phong bà làm phúc thần, và nơi nào dân cầu khấn đều ứng nghiệm.
Trong kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), Bình Vọng nằm trong phòng tuyến phía Nam kinh thành Thăng Long. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, vị tướng văn võ song toàn, được cử đi đánh giặc tại Hàm Tử. Trên đường hành quân, ông cho quân nghỉ tại Bình Vọng và làm lễ cầu đảo ở Linh Từ. Đêm ấy, thần linh báo mộng: “Tướng quân ra trận lần này ắt đại thắng”.
Quả đúng như vậy, quân Nguyên đại bại. Sau khi ông mất, dân xã lập miếu thờ ngay cạnh con đường lớn, gần tòa thành đất phủ Thường Tín, cách bến Chương Dương vài cây số, để tưởng nhớ vị anh hùng từng đi qua và được thần linh hộ độ.
Không chỉ là vùng đất cổ gắn bó mật thiết với nhiều sự kiện lịch sử, Bình Vọng còn là vùng đất khoa bảng nổi tiếng. Văn từ Thượng Phúc - ghi danh các nhà khoa bảng Thường Tín - đã chọn vùng đất lành này làm nơi gìn giữ, tiếp nối truyền thống hiếu học của đất danh hương xưa.
Tương truyền, một lần cụ Tả Ao đi qua Bình Vọng đã nhận xét: “Bình Vọng tựa như vân tán, thế địa linh tất sinh nhân kiệt”. Trong suốt 9 thế kỷ thi cử bằng chữ Hán, Bình Vọng đã sản sinh nhiều người học rộng, đỗ cao.
Nguyễn Hữu Đăng đỗ Tiến sĩ năm Đinh Mùi (1667). Khoa thi này triều đình chỉ lấy 3 người đỗ gồm: Nguyễn Quán Nho, Nguyễn Quang Trạch và Nguyễn Hữu Đăng, sau đó ông làm quan đến chức Đề hình Giám sát Ngự sử.
Lê Nguyễn Thường (Lê Trọng Thường) đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772), làm quan Hàn lâm Thị thư, Thị Tham chính Kinh Bắc. Lê Tông Quang đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822). Theo chú thích của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trước khi đỗ Tiến sĩ, ông đã đỗ Cử nhân vào năm Tân Tị (1821) và làm quan đến chức Tham hiệp tỉnh Ninh Bình. Vì kiêng húy, chữ “Tông” trên văn bia đề danh Tiến sĩ đã bị đục, nên một số tài liệu ghi ông là Lê Quang.
Nguyễn Tông đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825), đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mệnh thứ 10 (1829) và làm quan đến chức Án sát. Ông nguyên tên Nguyễn Tông, nhưng vì kiêng húy, sau này phải đổi là Nguyễn Trữ.
Đặc biệt, làng Bình Vọng chính là quê hương của Tiến sĩ Trần Lư, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1502) và làm quan Hiến sát sứ. Theo gia phả Bình Vọng Trần thị, Trần Lư có tên khác là Lương, tự Tu Khê (có tài liệu chép là Tu Hán), sinh năm Canh Dần 1470. Năm Nhâm Tuất (1502), ông đỗ Tiến sĩ, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Đông các Đại học sĩ Khuông nghĩa doãn Đàm Văn Lễ vâng sắc soạn, ghi rõ: Khoa thi Hội các Cử nhân trong nước có số dự thi đông đến 5.000 người. Qua bốn trường, lấy trúng cách 61 người và đưa tên dâng lên triều đình. Hoàng thượng đích thân hỏi thi ở sân rồng và xét duyệt kết quả: Ban cho Lê Ích Mộc 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Cảnh Diễn 24 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Phạm Khiêm Ích 34 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Trong khoa thi này, Trần Lư đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, đứng thứ 22 trong số 34 Tiến sĩ của hàng Đệ tam giáp. Các trước tác của ông được ghi nhận phong phú. Một số tư liệu cho biết ông làm hơn một nghìn bài thơ; Thư viện Hán Nôm hiện còn lưu Hiến sứ công thi văn tập với 246 bài thơ và 54 bài văn bia, tế văn.
Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn sưu tập được hai bài thơ, trong đó có bài Quá quan thư hoài, ghi lại tâm sự của ông khi đi sứ, thể hiện nỗi lo cho vận nước trong bối cảnh nhà Lê suy vi và họ Mạc đang lăm le đoạt ngôi.
Các nguồn sử liệu cũng cho biết, Tiến sĩ Trần Lư từng hai lần đi sứ sang nhà Minh vào các năm 1495 và 1506. Trong các chuyến đi này, ông được cho là đã học hỏi sâu về kỹ thuật vẽ bằng sơn và truyền dạy nghề cho cả làng.
Gia phả ghi rõ: “Dĩ tự tiên sinh nhi toàn hương tri thử nghệ” – nghĩa là cả làng biết nghề là nhờ ông truyền dạy. Từ việc truyền nghề của Trần Lư, nghề sơn lan tỏa ra nhiều vùng như Bình Vọng, Hạ Thái, Hà Vĩ… hình thành nên các phường thợ nổi tiếng khắp Đồng bằng Bắc Bộ.
Dân thợ truyền rằng, Trần Lư là người cải tiến kỹ thuật sơn, nâng cao chất lượng sơn ta, sáng tạo sơn dầu với lớp quang bóng đẹp, bền màu, đặt nền móng cho nghề sơn mài. Dù nghề sơn xuất hiện từ rất sớm, người thợ nhiều nơi vẫn tôn kính gọi ông là “Trần tướng công”, bậc thầy đầu tiên của nghề.
Ngọn bút tài hoa của Trần Lư đã thổi hồn vào nhiều đồ vật, biến chúng trở nên sống động. Nhiều đền đài, cung điện trang trí bằng nghệ thuật sơn thếp “rồng như đang bay, phượng như đang múa” trở nên lộng lẫy, uy nghiêm.
Theo gia phả và một số tư liệu, khi Trần Lư kết thúc chuyến đi sứ trở về, Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi (1527). Không chịu phục tân triều, ông đã tử tiết để giữ lòng trung. Vì vậy, trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú xếp ông vào mục “Bề tôi tiết nghĩa”.
Sau khi Tiến sĩ Trần Lư qua đời, dân làng tưởng nhớ dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ; hằng năm, vào hai kỳ xuân thu, dân làng hương hoa cúng lễ. Ở phố Nam Ngư (Hà Nội) hiện vẫn còn dấu tích đền thờ ông – tổ nghề vẽ sơn. Tại đền cũ ở Bình Vọng, đôi câu đối khắc ghi công đức ông:
“Lưỡng độ hoàng hoa danh Tiến sĩ / Bách niên đan hoạch cổ tiên dân”.
(Hai phen đi sứ, lừng danh Tiến sĩ / Trăm năm son thắm truyền dạy dân gian).
Ngoài năm vị đại khoa, làng Bình Vọng còn nhiều người đỗ trung khoa và tiểu khoa. Nhiều người giỏi “nho, y, lý, số”, là thầy đồ dạy chữ, thầy lang chữa bệnh; nhiều người là thợ cả sơn ta, đi khắp nơi truyền dạy nghề, góp phần giữ gìn và lan tỏa tinh hoa văn hóa làng nghề.

Đến nay, làng Bình Vọng vẫn lưu giữ nhiều dấu tích phản ánh đời sống văn hóa và truyền thống khoa bảng của một vùng quê trù phú. Đình Bình Vọng là nơi cất giữ nhiều di vật quý giá, nổi bật là hệ thống bia đá khắc ghi quy ước, luật lệ của cộng đồng từ hàng trăm năm trước.
Bia “Bình Vọng xã đình bi”, dựng vào năm Vĩnh Tộ thứ ba (1613), quy định rõ sáu điều lệ xử phạt những hành vi vi phạm như trộm cắp, nói năng bừa bãi hay gây thù oán với người xung quanh, cho thấy ý thức xây dựng nền nếp và giữ gìn hòa khí trong cộng đồng từ rất sớm.
Một tấm bia khác, khắc năm Phúc Thái thứ tư (1646), nêu cụ thể quy ước về quản lý ruộng đất: “Ai cậy quyền thế lấn chiếm đất công sẽ bị xử tội; nếu bỏ trốn, anh em phải đứng ra chịu thay, và ruộng đất bị tịch thu hoặc phạt 100 quan tiền”. Những quy định chặt chẽ này phản ánh tinh thần thượng tôn kỷ cương, bảo vệ tài sản chung và giữ gìn sự công bằng trong đời sống làng xã thời bấy giờ.
Bia dựng năm Khánh Đức thứ hai (1650) ghi lại câu chuyện về bà đồng Nguyễn Thị Ngọc Vĩnh - người nổi tiếng giỏi tiên tri, được chúa Trịnh ban tước hầu và cấp cho 92 mẫu 3 sào ruộng. Trước khi qua đời, bà hiến toàn bộ số ruộng này cho làng và còn mua thêm 21 mẫu ruộng tư để dành cho việc phụng thờ, tế tự. Nghĩa cử cao đẹp của bà trở thành một trong những dấu ấn đẹp về văn hóa làng xã Bình Vọng.
Ngay cạnh đình là chùa Báo Quốc - một di tích lâu đời của làng. Theo bia “Trùng tu Báo Quốc tự bi” do Tiến sĩ Nguyễn Đăng soạn năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa vốn là danh lam cổ tích, phong cảnh hữu tình, nhưng thời gian khiến nhiều hạng mục xuống cấp.
Trước thực trạng đó, các quan viên trong làng đã quyên góp trùng tu thượng điện, nhà thiêu hương, tam quan, đồng thời dựng thêm bảy gian nhà cầu nhằm che mưa nắng cho người qua lại. Đến năm 1780, bia “Bình Vọng tự bi” do Tiến sĩ Nguyễn Tư Hiền soạn tiếp tục khẳng định: “Chùa Báo Quốc có từ thời Lý, rất linh thiêng, từng âm phù giúp nước, yên dân”.

Các di tích ở Bình Vọng còn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại văn chỉ làng, cụ Nguyễn Văn Tố - Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ - đã khai mạc khóa học chữ Quốc ngữ đầu tiên. Cùng thời gian này, một nhóm thanh niên tiến bộ của làng cho ra đời tờ bích báo “Bình Vọng mới”, với mong muốn góp phần cải tạo hương thôn, xây dựng nếp sống mới và xóa bỏ hủ tục.
Tinh thần hiếu học của vùng quê khoa bảng tiếp tục được gìn giữ và bồi đắp qua nhiều thế hệ. Năm 1999, thư viện làng Bình Vọng được thành lập - cũng là thư viện đầu tiên của huyện Thường Tín trước đây. Đến nay, thư viện đã duy trì hoạt động suốt 26 năm.
Từ chỗ chỉ có chưa đến 100 đầu sách, nay thư viện sở hữu hàng vạn cuốn sách, báo, tạp chí, toàn bộ tài liệu đều được mã hóa, số hóa, giúp công tác quản lý và tra cứu thuận tiện hơn, trở thành điểm hẹn văn hóa quen thuộc của người dân địa phương.
Theo người dân địa phương, di tích cầu ngói Bình Vọng là một trong những biểu tượng tiêu biểu cho thẩm mỹ tinh tế, sự khéo léo và tài hoa chữ nghĩa của làng. Cầu ngói có 7 gian: 5 gian giữa thông thủy, cộng với 2 gian đầu hồi, được xây dựng theo kiểu “thượng gia hạ kiều” - trên là nhà, dưới là cầu.
Trên bốn đôi trụ vuông giữa cầu, khắc bốn câu đối do các bậc cao niên trong làng sáng tác: Môn ngoại phong nghênh xuân hiến tú / Kiều trung đối khách tửu nồng hương (Ngoài cửa, gió đón xuân về dâng cảnh đẹp / Giữa cầu, tiếp khách rượu nồng thơm).