Con trai của Doãn Bang Hiến là Doãn Định làm quan tới chức Giám sát ngự sử, sau bị bãi chức do ngăn Thượng hoàng Minh Tông đến ngự sử đài. Chắt nội của Doãn Bang Hiến là Doãn Nỗ - khai quốc công thần thời nhà Lê sơ, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.
Dòng họ Doãn ở Cổ Định còn có Doãn Hoàng Tuấn đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1478) làm Thượng thư bộ Lễ; Doãn Mậu Khôi đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502), làm Thượng thư kiêm Chưởng Hàn lâm viện; Doãn Văn Hiệu đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1541); Doãn Đình Đống đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1571); Doãn Mậu Đàm đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1586); Doãn Tuấn đỗ Tiến sĩ khoa Bính Dần (1626)...
Văn bia khoa thi năm Mậu Tuất (1598) ghi danh Lê Bật Tứ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. |
Vào thời nhà Lê, ở Cổ Định nổi lên nhà khoa bảng Lê Bật Tứ. Năm lên 8 tuổi ông đã rơi vào cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ. Đến tuổi trưởng thành ông tham gia cả hai lần thi Hương năm 1584 ở Sơn Tây và 1592 ở Lỗ Hiền (Thanh Hóa) đều đỗ nhất nhì cả hai kỳ thi này. Đến năm Mậu Tuất (1598), vua Lê Thế Tông mở khoa thi Hội ở Cẩm Vân Đình (Nam Định). Lê Bật Tứ tham gia ứng thí và đỗ thứ 2 trong số 5 Tiến sĩ vào thi Đình.
Theo văn bia đề danh Tiến sĩ, khoa thi này Lê Bật Tứ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Năm 1600, ông được thăng Hộ khoa cấp sự trung. Năm 1603 được cử đi làm giám khảo trường thi Thiên Trường, sau đó lại đi Cao Bằng dẹp loạn. Năm 1604 ông được phong Đô ngự sử. Hai năm sau lại làm Chánh sứ sang nhà Minh.
Sau 2 năm đi sứ, do hoàn thành trọng trách nên Lê Bật Tứ được phong Tả thị lang bộ Hộ, tước Cấm Phong Tử. Năm 1610 do tình hình đất nước, ông dâng khải điều trần lên chúa Trịnh đề nghị hai việc: Xin định ngôi thế tử và giao cho giữ binh quyền để cố kết lòng dân, xin xử trí các cường phiên - các tù trưởng vùng xa được hưởng thế tập cha truyền con nối - chuyên quyền một trấn để thống nhất chế độ.
Trịnh Tùng tuy khen đề nghị của ông nhưng không làm theo. Năm 1618, ông lại dâng khải điều trần 6 việc: Xin sửa đức chính để cầu mệnh trời giúp, xin đè nén kẻ quyền hào địa phương để nuôi sức dân, xin cấm phú dịch phiền hà để đời sống của dân được đầy đủ, xin bớt xa xỉ để của cải trong dân được thừa thãi, xin dẹp trộm cướp để dân được yên, xin sửa sang quân chính để bảo vệ dân. Trịnh Tùng khen ngợi ông và làm theo.
Hằng năm, các dòng họ ở Cổ Định đều tổ chức tế lễ các vị tiên hiền khoa bảng. |
Từ năm 1620, Hoàng giáp Lê Bật Tứ được mời vào phủ chúa làm Tham tụng giúp Triết vương Trịnh Tùng điều hành đất nước, sau lại giúp Trịnh Tráng củng cố xây dựng vương triều. Năm 1623 ông được phong Thiếu bảo.
Năm 1627 sau khi tuần thú ở phía Nam về, khi qua quê hương tạm đóng quân lại nghỉ ngơi. Nhân đó để giúp làng tránh lũ lụt hàng năm, do nước ứ đọng ở sông Lãng chảy không kịp, ông đã triển khai cho đào sông nhân tạo nối sông Lãng chảy sang sông Hón gọi là mau Đan lồ, chảy xuôi theo sông Nổ Hẻn rồi chảy vào sông Hoàng Giang ra biển…
Lê Bật Tứ cũng xây cho làng một khu ở Cồn Chợ, có lớp học để con em học hành, kết thúc hàng nghìn năm không có trường sở ở làng xã, trẻ lớn lên học tại quê mà không phải đi học tại nơi khác. Năm 1627, ông đột ngột qua đời khi đang tại nhiệm.
Triều đình thương tiếc, nghỉ triều phục 3 ngày, cử triều thần nhạc quan thay mặt vua đến đọc điếu văn, ra chỉ dụ xây đền thờ và dựng bia đá ghi công, tặng phong Thái bảo Diễn quận công, ban tên Thụy là Hòa Nghĩa. Hiện nay, tại làng Cổ Định, vẫn còn đền thờ, văn bia ghi chép về hành trạng, sự nghiệp của ông.
Sau Lê Bật Tứ, Cổ Định còn có Lê Nhân Kiệt đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu (1651). Ông làm quan đến chức Hình khoa đô cấp sự trung.
Căn cứ vào văn bia Phụ minh tịnh ký tại đền thờ Hoàng giáp Lê Bật Tứ, ngoài Lê Bật Tứ, dòng họ còn có 5 người đỗ Tiến sĩ gồm: Lê Duy Thúc, Lê Duy Xứ, Lê Thân, Hanh Phủ.
Trong các nhân vật khoa bảng trên, Lê Thân, Lê Duy, Lê Bật Tứ được chính sử và các sách khoa bảng ghi chép, còn những người khác chỉ được ghi chép trong văn bia và gia phả.
Theo thống kê từ “Địa chí huyện Triệu Sơn”, thời kỳ phong kiến địa phương này có 64 người Hương cống (triều Lê trung hưng) và Cử nhân (triều Nguyễn) thì riêng làng Cổ Định đã có 5 người: Lê Đình Nghị đỗ Hương cống khoa Ất Dậu (1706) đời vua Lê Dụ Tông; Lê Tung đỗ khoa Kỷ Dậu (1729) đời vua Lê Duy Phường; Nguyễn Thân đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu (1729); Lê Ngọc Toản đỗ Hương cống khoa Mậu Thìn (1868); Lê Trọng Nhị đỗ khoa Quý Mão (1903).