Vùng 2: bình quân 30 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 40 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Vùng 3: bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 45 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Số lượng học sinh/lớp của trường phổ thông dân tộc nội trú và trường trung học phổ thông chuyên thực hiện theo quy định tại quy chế tổ chức và hoạt động.
Việc xác định số lượng học sinh/lớp được tính cụ thể theo từng cơ sở giáo dục, không xác định theo đơn vị hành chính cấp xã, huyện, tỉnh.
Căn cứ quy định chia vùng, UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn xác định các đơn vị cấp xã theo từng vùng làm căn cứ để tính định mức giáo viên cho các cơ sở giáo dục phổ thông.
Đối với những trường hợp đặc biệt mà phải bố trí số lượng học sinh/lớp thấp hơn hoặc cao hơn so với mức bình quân theo vùng quy định thì UBND tỉnh quyết định định mức số lượng học sinh/ lớp phù hợp với thực tế.
Mỗi trường bố trí 1 nhân viên tư vấn tâm lý
Thông tư cũng quy định, vị trí việc làm giáo viên tiểu học, trong đó trường tiểu học được bố trí tối đa 1,5 giáo viên/lớp đối với lớp học 2 buổi/ngày; bố trí tối đa 1,2 giáo viên/lớp đối với lớp học 1 buổi/ngày.
Mỗi trường tiểu học được bố trí 1 người ở vị trí việc làm tư vấn học sinh. Trường hợp không bố trí được biên chế thì hợp đồng lao động hoặc giáo viên kiêm nhiệm.
Đối với vị trí hỗ trợ giáo dục người khuyết tật, cứ 15 học sinh khuyết tật ở bậc tiểu học được bố trí 1 người. Đối với các trường tiểu học có học sinh khuyết tật học hòa nhập, trường có dưới 20 học sinh học hòa nhập bố trí 1 người. Trường có từ 20 học sinh khuyết tật học hòa nhập trở lên thì được bố trí 2 người. Trường hợp không bố trí được biên chế thì hợp đồng kiêm nhiệm hoặc giáo viên kiêm nhiệm.
Việc bổ sung 1 vị trí việc làm tư vấn học sinh trong trường phổ thông nhằm thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến công tác tư vấn học sinh trong các trường phổ thông nhằm thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến công tác tư vấn tâm đặc biệt đến công tác tư vấn tâm lý học sinh.