Trung thu - ký ức đẹp neo nơi tuổi thơ mỗi người và luôn được thi ca nâng niu lưu giữ để mỗi dịp ngân lên lại làm biết bao trái tim rộn nhịp.
Với các thi phẩm: “Trung thu” (Đặng Huy Giang) và “Vui Trung thu cùng bé” (Nguyễn Ngọc Ký) cũng vậy, khi đọc lên trong ta cứ thế ùa về những niềm vui đêm hội trăng rằm.
Có thể thấy, dù cùng được viết theo thể lục bát khá chuẩn chỉnh về niêm, luật, vần, song mỗi bài thơ lại vẽ nên bức tranh Trung thu khác biệt cả về màu sắc lẫn bố cục. Đó là một “Trung thu” vừa nhắc nhớ tích xưa vừa đặc tả cỗ trông trăng có lẽ ở nơi phố thị khá sôi động, hiện đại. Còn “Vui Trung thu cùng bé” lại là hội rước đèn mang nhiều dáng vẻ nơi thôn quê yên bình.
Trước tiên, cùng đọc bài thơ “Vui Trung thu cùng bé”:
“Trái hồng phô má đỏ hây
Bưởi đào ướp nắng treo ngay trước nhà
Long lanh sao sáng Ngân Hà
Xuống chơi cùng bé trong nhà ngoài sân
Rừng xa sư tử, kỳ lân
Cùng về với bé kết thân
bạn hiền
Dưới ao cá chép cùng lên
Góp vui mở hội rước đèn
đêm trăng
Trái na mở mắt tròn căng
Chuối cười phô cả hàm răng rực vàng”.
Bài thơ được gói gọn trong 10 câu, không tách khổ, miêu tả một cách sinh động các sự vật cùng “Góp vui mở hội rước đèn đêm trăng”. Trước tiên là các loại quả: Hồng, bưởi, na, chuối có ngay ở vườn nhà. Bằng sự quan sát tinh tế và sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, tác giả phác ra nét nhận diện cho từng quả thật chân thực mà vẫn dí dỏm.
Với hồng thì đương nhiên phải là màu đỏ song không phải thể hiện sự trưng diện ở trang phục mà: “phô má đỏ hây”. Ở đây, tác giả sử dụng động từ “phô” – một hành động thể hiện việc khoe của con người giờ được gán cho sự vật là quả hồng. Từ việc nhân cách hóa này, người đọc vừa được thấy một quả hồng vừa vặn vào độ chín, rực rỡ sắc đỏ vừa hình dung về đôi má đỏ hây – bừng đỏ bởi cái hanh hao của tiết Thu - vô cùng đáng yêu của em bé.
Còn quả bưởi thì: “ướp nắng treo ngay trước nhà” – hình ảnh thật đẹp, gợi nhắc về câu tục ngữ đúc rút về sắc nắng mạnh mẽ, khô giòn của mùa Thu: “Nắng tháng Tám rám trái bưởi”. Động từ “ướp” được sử dụng thật khéo khi không chỉ lột tả sắc màu của quả bưởi vừa vặn vào độ thu hoạch – màu vàng của nắng, mà còn đánh dấu mốc thời gian – tháng Tám (âm lịch) – tháng có đêm rằm đẹp nhất trong năm, đó cũng chính là Tết Trung thu.
Nếu hồng và bưởi là những hình ảnh mở ra thi phẩm thì na và chuối có nhiệm vụ khép lại, được miêu tả đầy ngộ nghĩnh, tinh nghịch: “Trái na mở mắt tròn căng/ Chuối cười phô cả hàm răng rực vàng”. Cả hai tiếp tục được nhân cách hóa để làm nổi bật những đặc tính riêng biệt về loài: “mở mắt”, “cười phô”.
Với quả na, hình ảnh “mở mắt” không mới, như trong bài thơ “Tiếng gà” (Trần Đăng Khoa, 1967) cũng viết: “Tiếng gà/ Giục quả na/ Mở mắt/ Tròn xoe…”. Nhưng với chuối “cười phô cả hàm răng rực vàng” có lẽ là một phát hiện độc đáo nhờ sự quan sát tỉ mỉ để tìm ra được đặc điểm đặc trưng của sự vật và sử dụng ngôn từ thể hiện vừa chính xác vừa gợi hình, gợi cảm.
Chắc hẳn rằng, khi đọc câu thơ này không ít người phải gật gù vì sao mà tác giả có thể khéo sử dụng biện pháp nhân hóa để đặc tả về nải chuối chín đón rằm tháng Tám thật quen mà lạ đến thế. Nhất là, với các em nhỏ thì không khỏi bụm miệng cười theo loài quả thưởng thức hàng ngày vào dịp trăng tròn này cũng đang “cười phô cả hàm răng rực vàng”.
Cùng với các loại quả ở vườn nhà, đêm hội rước đèn còn có sự hiện diện của nhiều sự vật thân quen khác:
“Long lanh sao sáng Ngân Hà
Xuống chơi cùng bé trong nhà ngoài sân
Rừng xa sư tử, kỳ lân
Cùng về với bé kết thân
bạn hiền
Dưới ao cá chép cùng lên”
Từ mãi bầu trời cao xa, những vì sao thắp sáng dải Ngân Hà cũng “xuống chơi cùng”. Trong khu rừng xanh thẳm, sử tử rồi kỳ lân cũng về “kết thân bạn hiền”. Gần nhất chỉ có cá chép vượt lên ngay ở ao nhà. Biện pháp tu từ nhân hóa tiếp tục được sử dụng qua những động từ chỉ hành động: “xuống chơi”, “kết thân”, “cùng lên”… tạo ra sự gần gũi, thân thiết giữa chủ thể trữ tình là bé với vạn vật xung quanh.
Như vậy, cùng với các loại quả trong vườn nhà như hồng, bưởi, na, chuối là sao, sư tử, kỳ lân, cá chép, tất cả cùng đến với cuộc hẹn đêm hội trăng rằm của bé. Sự vật nào cũng được nhân cách hóa nên thật thân thuộc, dễ mến. Từ đó, tác giả gieo vào tâm hồn trẻ thơ những niềm reo ca trong trẻo khi được nhận sự nâng niu, yêu thương đủ đầy để các em thêm trân quý, gắn bó với những người bạn đến từ thiên nhiên.
Đêm hội trăng rằm ở bài “Trung thu” cũng được mở ra rất đỗi rộn ràng:
“Trên ấy có vầng trăng tròn
Trong trăng, truyền thuyết nhắc: còn cây đa
Còn trâu ăn lúa nhẩn nha
Giật mình chú Cuội gọi cha
ới ời
Còn cây cỏ mọc trên đồi
Còn người chẳng bận như người trần gian
Dưới này có thỏ kéo đàn
Có con mèo múa, có dàn vịt ca
Ô tô cũng muốn lấy đà
Đoàn tàu hỏa lượn ga nhà quẩn quanh
Đồ chơi xúm xít, em anh
Mâm ngũ quả đẹp như tranh trước thềm
Đốt đèn ta gọi trăng lên
Rủ thêm chú Cuội, mời thêm chị Hằng
Trung thu, dung dẻ,
dung dăng”.
Bài thơ gồm hai khổ, tương đồng với đó là chuyện trăng tròn ở tiên giới và trần gian, được phân định rõ bởi các trạng ngữ chỉ địa điểm: “trên ấy”, “dưới này”. Khi ở trên tiên giới, ta được gặp lại tích “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa” với những chi tiết: cây đa, trâu ăn lúa, gọi cha…
Ở đây có điệp từ “còn” được sử dụng đến 4 lần, phải chăng để nhấn mạnh rằng: Dù thời gian có trôi chảy nhưng chuyện xưa, bài học cũ – về đức tính lười nhác của Cuội - chẳng bao giờ bị lãng quên để người đời nay, đời sau soi vào mà sửa mình. Cái thói lười biếng có ở bất kỳ ai, đừng để nó chiếm lĩnh, chế ngự bản thân để tránh hậu họa.
Ngoài ra, hai câu “Còn cây cỏ mọc trên đồi/ Còn người chẳng bận như người trần gian” gợi về cuộc sống nơi tiên giới đầy thư thả, nhàn tản chứ không phải là những bộn bề lo toan mưu sinh như nơi trần gian. Có thể gọi đó là phép so sánh mang chút tâm trạng bì tị thường thấy nhưng vẫn dễ thương, thấu tỏ.
Sang khổ thứ hai – “dưới này” – loạt sự vật cùng tham gia đón trăng được liệt kê khá vui nhộn, sinh động qua việc tác giả nhân cách hóa bằng những động từ: kéo đàn, múa, ca, lấy đà, lượn.
Ở đây, bên cạnh các con vật quen thuộc, gắn liền với Trung thu truyền thống: “Dưới này có thỏ kéo đàn/ Có con mèo múa, có dàn vịt ca”, “Mâm ngũ quả đẹp như tranh trước thềm”; còn hiện diện những đồ vật hiện đại nơi phố thị: “Ô tô cũng muốn lấy đà/ Đoàn tàu hỏa lượn ga nhà quẩn quanh”…
Và họp chung lại là cảnh: “Đồ chơi xúm xít, anh em”. Câu thơ này tuy đơn giản – dừng lại ở một câu kể sự vật, sự việc nhưng vẫn đủ sức biểu đạt khá sâu sắc. Đó là một lời khen cho tình thân đoàn kết, ấm áp của trẻ nhỏ.
Thường thì, đứa trẻ nào cũng có sự ích kỷ của riêng mình, điều đó được bộc lộ rõ nhất trong việc giành, chiếm giữ độc quyền món đồ chơi yêu thích. Chẳng thế mà nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn có bài thơ “Làm anh” đã dành lời khuyên: “Có đồ chơi đẹp/ Cũng nhường em luôn”. Vậy nhưng ở bài thơ “Trung thu”, tác giả lại thấy được sự chia sẻ, vui vầy của trẻ nhỏ khi cùng chơi đồ chơi. Phải chăng, dưới ánh trăng Thu bao dung, trìu mến, các em thêm gắn kết, yêu thương, chan hòa?
Bài thơ khép lại với một loạt hoạt động vui hội đêm rằm, từ đốt đèn gọi trăng đến rủ chú Cuội, mời chị Hằng:
“Đốt đèn ta gọi trăng lên
Rủ thêm chú Cuội, mời thêm chị Hằng
Trung thu, dung dẻ,
dung dăng”.
Như vậy, khi đã đủ đầy các thành viên thì việc cần làm ngay là đốt đèn gọi trăng. Vì sao đây? Vì có không ít Trung thu, trăng đã…trốn đi chơi, để lại bầu trời tối sẫm, toàn mây đen bao phủ. Thế đấy, trăng cũng đáng trách lắm chứ, mỗi lần trốn đi chơi như thế là mưa giông, bão gió nổi lên.
Lễ hội Trung thu vẫn có thể tổ chức ở trong nhà dưới ánh điện lung linh nhưng nơi bị bão gió đi qua thường để lại không ít hậu quả buồn: Đổ cây, sạt đất, ngập lụt, mùa màng thất bát…; rồi cả những trang sách chìm trong mưa lũ, ngăn bước em thơ đến trường. Có lẽ, ở đây là một lời nhắc: Trăng hãy chăm chỉ thắp sáng bầu trời đêm rằm để trẻ thơ có được niềm vui vẹn tròn của lễ hội và nhà nhà an vui.
Khi đó, tất cả cùng cất tiếng hát “dung dẻ, dung dăng”. Bài thơ khép lại ở đây nhưng nhắc nhớ mọi người cùng hòa giọng trong khúc đồng dao thân thương: “Dung dăng dung dẻ/ Dắt trẻ đi chơi./ Đến cổng nhà trời,/ Lạy cậu lạy mợ./ Cho cháu về quê,/ Cho dê đi học./ Cho cóc ở nhà,/ Cho gà bới bếp./ Xì xì xì xụp, Ngồi thụp xuống đây”.
Như vậy, từ “Vui Trung thu cùng bé” đến “Trung thu” đều là những niềm vui reo ca trong lễ hội trăng rằm. Bằng những câu lục bát giản dị nhưng giàu tính tượng hình, tượng thanh, sự liên tưởng qua việc nhân cách hóa sự vật, sự việc, các tác giả đã đem lại không khí đón trăng rộn ràng, lung linh, lý thú từ nông thôn đến thành thị và luôn đậm sắc màu truyền thống. Và cả vũ trụ này cùng hướng về trẻ thơ bằng tình yêu thương, sự nâng niu khi con người gần gũi, giao hòa, đoàn viên cùng thiên nhiên, đất trời.