Cô Lương Thị Kim Thu. |
Năm 2020, khi xã Pờ Ê đạt chuẩn nông thôn mới, giáo viên và học sinh mất một số chế độ hỗ trợ. Ngoài khoản lương hằng tháng được nhận, chỉ có 5/10 giáo viên được hỗ trợ từ việc dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. Để giữ chân giáo viên, Ban giám hiệu nhà trường tích cực làm công tác tư tưởng, vận động các cô tiếp tục gắn bó với trường, lớp và học sinh.
Với 7 điểm trường, chỉ duy nhất trường chính có 2 giáo viên/lớp, còn lại 6 điểm lẻ nằm rải rác ở các thôn chỉ bố trí được 1 giáo viên đứng lớp. Do đó, nếu giáo viên nhóm lớp tại các điểm thôn nghỉ sinh hoặc đau ốm thì việc điều động người thay thế khá khó khăn. Còn 155 học sinh, trong đó 55 em được hỗ trợ ăn trưa và 28/55 em thuộc hộ nghèo nhận chi phí hỗ trợ học tập. Do đó, chặng đường đến trường của học sinh còn nhiều khó khăn, vất vả.
Với mục tiêu Chương trình hướng đến năm 2030 sẽ bồi dưỡng 60% giáo viên biết sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ thì hiện nay nhà trường đã bảo đảm. Bởi trường có 10 giáo viên thì 7 cô là người địa phương, thông thạo tiếng bản địa. Ba cô giáo thường xuyên đến thôn, làng tuyên truyền và vận động phụ huynh cho các em ra lớp nên ít nhiều cũng biết tiếng mẹ đẻ của trẻ.
Tôi kỳ vọng, Chương trình hướng đến năm 2030 sẽ xóa bỏ 100% phòng học nhờ, phòng học tạm; góp phần huy động nguồn lực bổ sung đủ bộ đồ chơi ngoài trời, trong lớp cho trẻ mầm non, đặc biệt là ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.
Cô Y Mảnh giảng dạy cho trẻ mầm non vùng khó của xã Mường Hoong. Ảnh: Nguyễn Dung |
Học sinh nơi đây đa số là người dân tộc thiểu số nên điều kiện kinh tế, đời sống khó khăn. Do đó, ngoài những thiết bị được phân bổ, chúng tôi chủ động thiết kế, làm góc học tập, đồ dùng và đồ chơi sinh động để thu hút các em ra lớp. Từ đó, giúp trẻ hình thành các kỹ năng và tự tin, mạnh dạn hơn.
Năm học 2022 - 2023, tôi và một giáo viên đảm nhận dạy 45 học sinh của lớp 3+4+5 tuổi, khá vất vả. Hai giáo viên cân đối tổ chức các hoạt động dạy - học cho từng lứa tuổi. Bởi nếu ưu tiên trẻ 5 tuổi bảo đảm đủ kiến thức và kỹ năng vào lớp Một thì thiệt thòi cho các em 3 – 4 tuổi. Tuy nhiên, để triển khai một tiết dạy đối với chúng tôi khá khó khăn. Những đồ dùng phục vụ dạy học thầy cô đều phải chuẩn bị trước và đa phần có gì dạy đó chứ không thể đầy đủ được.
Hiện nay, mức lương của tôi khoảng 3 triệu đồng, thêm khoản phụ cấp từ Chương trình 135 thì mỗi tháng nhận được trên 7 triệu đồng. Thế nhưng, nhà cách trường xa nên trừ các khoản chi phí xăng xe, ăn ở… thì vừa hết. Đặc biệt, vào thời điểm mưa kéo dài, 2 - 3 tuần tôi mới về thăm nhà một lần do đồi núi hiểm trở, thường xuyên sạt lở. Đáng nói, không chỉ nơi đây, nhiều khu vực trên địa bàn tỉnh Kon Tum còn khó khăn, thời tiết khắc nghiệt... Mong rằng, Đảng, Nhà nước có chính sách đặc thù quan tâm, hỗ trợ thêm cho giáo viên, trẻ mầm non vùng sâu, vùng xa.
Niềm vui của học sinh điểm trường Tăk Râu (thôn 2, xã Trà Nam, Nam Trà My) trong ngày làm lễ bàn giao công trình cải tạo trường học từ nguồn xã hội hóa. Ảnh: NVCC |
Từ các nguồn lực huy động được, Câu lạc bộ Nam Trà My đã xây dựng kiên cố khoảng 60 điểm trường với 120 phòng học. Địa điểm được chọn để xây dựng đều thuộc khu vực hẻo lánh, đường sá đi lại khó khăn, chủ yếu di chuyển bằng xe gắn máy, thậm chí là đi bộ theo đường mòn. Chưa có đường giao thông là một trong những “nút thắt” khiến nhiều điểm trường lẻ tại các thôn bản khó có thể được xây dựng kiên cố hóa bằng nguồn ngân sách Nhà nước.
Trong khi đó, với cách làm uyển chuyển của các đội nhóm thiện nguyện, việc huy động nguồn lực để xây dựng kiên cố, bán kiên cố theo mô hình phòng học lắp ghép… rất thuận tiện. Chưa kể, các câu lạc bộ, đội nhóm có thể vận động bà con địa phương tham gia đóng góp ngày công để vận chuyển vật liệu. Có những điểm trường, nếu tính chi phí công vận chuyển vật liệu, có khi tương đương với chi phí xây dựng công trình.
Vì vậy, để có thể hoàn thành mục tiêu xóa phòng học tạm, kiên cố hóa phòng học ở những điểm trường mầm non tại các thôn bản vùng sâu, vùng xa, theo tôi, phòng GD&ĐT các địa phương cần thống kê chi tiết theo từng thôn, xã cụ thể, kèm theo phương án xây dựng, cách di chuyển, chi phí… Làm được điều này, phải khảo sát cụ thể để đưa ra phương án sát với thực tế, tạo thuận lợi cho đội nhóm trong tính toán chi phí, huy động nhân lực. Những thông tin này phải có sẵn để CLB, đội nhóm, đơn vị tổ chức khi cần có thể kết nối ngay.
Quan trọng hơn cả, các phòng GD&ĐT cần có nhân sự để kết nối với đội nhóm thiện nguyện. Có thể chia nhỏ thành các gói hỗ trợ để phù hợp với năng lực và nhu cầu của từng đội nhóm cụ thể. Ví dụ: Một công trình kiên cố hóa phòng học ở điểm trường thôn đôi khi có hơn 1 đội nhóm tài trợ để hoàn chỉnh (đội tài trợ xây dựng phòng học, đội hỗ trợ xây dựng nhà công vụ, bếp ăn, vận động thêm đồ dùng đồ chơi…). Công trình nên được làm theo hình thức cuốn chiếu, tập trung đầu tư hoàn chỉnh cho 1 điểm trường rồi triển khai ở nơi khác.