Tái cấu trúc hệ thống giáo dục Đại học công lập hướng đến mục tiêu hình thành các đại học mạnh, tinh gọn, liên ngành, tự chủ.
Chủ trương tái cấu trúc hệ thống các trường công lập theo tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị là một bước đi chiến lược mang tính lâu dài. Tái cấu trúc hệ thống giáo dục Đại học công lập theo Nghị quyết 71 với mục tiêu là hình thành các đại học mạnh, tinh gọn, liên ngành, tự chủ; đồng thời bảo đảm chất lượng đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo trong giai đoạn chuyển đổi và đủ năng lực cạnh tranh.
Ở ĐBSCL, dù có tiềm năng lớn, chất lượng, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp so với mặt bằng cả nước, đặt ra đòi hỏi cấp bách về nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao.
Vùng đất hơn 17,4 triệu dân, chiếm 17,5% dân số cả nước, ĐBSCL sở hữu nền tảng dân số trẻ, mạng lưới hơn 45 trường cao đẳng, đại học và hơn 30 trường trung cấp (riêng tỉnh Vĩnh Long, có 6 cơ sở giáo dục đại học, 6 trường cao đẳng, đứng thứ hai khu vực ĐBSCL về số lượng và quy mô đào tạo). Cùng nhiều cơ sở giáo dục đại học có uy tín, quy mô hơn 3.000 - 10.000 sinh viên mỗi năm, ngành đào tạo đa dạng, có uy tín đối với xã hội như Đại học Cần Thơ, Trường Y Dược Cần Thơ, Trường ĐH Trà Vinh…
Mạng lưới đại học của vùng đang hình thành trục nòng cốt, kết hợp định hướng hàn lâm, khoa học, công nghệ và một cực thiên về ứng dụng, gắn kết phục vụ cộng đồng, liên thông doanh nghiệp như Đại học Cần Thơ được xem là trung tâm khoa học, công nghệ lớn của vùng; Trường ĐH Trà Vinh cùng các trường đại học khác thể hiện mô hình đại học đa ngành, tự chủ, gắn kết cộng đồng và doanh nghiệp phù hợp với đặc thù phát triển của khu vực ven biển, nông nghiệp và năng lượng tái tạo...
Sự kết nối này mở ra cơ chế phân vai rõ ràng: nơi tập trung nghiên cứu nền tảng, nơi dẫn dắt chuyển giao ứng dụng, cùng lan tỏa chuẩn chất lượng ra toàn mạng lưới. Trong đó, các mô hình quản trị tự chủ, kiểm định quốc tế chương trình và gắn kết doanh nghiệp, xã hội cho thấy khả năng thích ứng với yêu cầu tái cấu trúc: tinh gọn, hiệu quả, chuẩn hóa, tăng cường trách nhiệm giải trình.
Nòng cốt không chỉ ở quy mô, mà ở mô hình quản trị, chuẩn chất lượng, năng lực gắn kết doanh nghiệp, cộng đồng và khả năng dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, trục phát triển giáo dục đại học ĐBSCL đang dần định hình theo hướng bổ trợ: một cực thiên về hàn lâm, khoa học công nghệ và một cực thiên về ứng dụng, gắn kết cộng đồng, liên thông doanh nghiệp, phù hợp đặc thù ven biển, nông nghiệp.
Thực tiễn triển khai tự chủ đại học cho thấy, khi được trao quyền về học thuật, tổ chức và tài chính, các cơ sở giáo dục đại học chủ động xây dựng chiến lược phát triển, chuẩn hóa chương trình theo khung quốc tế, đa dạng hóa nguồn lực, mở rộng hợp tác toàn cầu.
Tại vùng ĐBSCL, những trường công lập dẫn đầu về tự chủ như Trường ĐH Trà Vinh, Đại học Cần Thơ đã nhanh chóng nâng cao chất lượng của các chương trình đào tạo thông qua việc đạt theo các tiêu chuẩn kiểm định quốc tế uy tín như tiêu chuẩn Đông Nam Á AUN - QA (Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Trà Vinh…), đến các tiêu chuẩn Châu Âu FIBAA (Trường ĐH Trà Vinh), tiêu chuẩn Hoa Kỳ ABET (Trường ĐH Trà Vinh).
Trong bức tranh đó, kinh nghiệm tự chủ, kiểm định quốc tế diện rộng, hợp tác với doanh nghiệp và các đối tác nước ngoài, cùng định hướng phục vụ trực tiếp ngành kinh tế mũi nhọn giúp một số trường đại học đóng vai trò dẫn dắt quá trình chuẩn hóa và liên kết hệ sinh thái đại học - doanh nghiệp - địa phương.
Sự chủ động mở ngành mới, cùng các hướng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo gắn với lợi thế vùng như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến nông sản, khoa học kỹ thuật, khoa học sức khỏe, năng lượng tái tạo, logistics, du lịch sinh thái biển, trí tuệ nhân tạo… đang tạo nền tảng kết nối tri thức với nhu cầu phát triển của địa phương và khu vực.
Tái cấu trúc hệ thống giáo dục Đại học công lập theo Nghị quyết 71 của Trung ương hướng đến mục tiêu tối ưu hóa mạng lưới các trường đại học tại ĐBSCL. Tuy nhiên, cần phải tiếp cận theo bộ tiêu chí minh bạch (chức năng, chất lượng, năng lực quản trị, mức độ gắn kết vùng, ngành); tránh “ghép cơ học”; khuyến khích mô hình tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, đặt người học làm trung tâm và thúc đẩy liên thông, liên kết đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.
Khi các “đầu tàu” duy trì tính độc lập học thuật song hành với hợp lực vùng, quá trình sáp nhập có thể trở thành cơ hội nâng hạng chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách với các cực phát triển, và đóng góp thiết thực cho mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL, mà còn có thể trở thành mẫu hình về chuyển đổi từ tiềm năng thành năng lực cạnh tranh thực sự.
Nhìn rộng ra, nhiều địa phương ở ĐBSCL - như trường hợp Vĩnh Long được các chuyên gia nhận định, đang chọn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như một mũi đột phá chiến lược, song hành với hạ tầng vật lý và hạ tầng số.
Lợi thế nằm ở mật độ cơ sở đào tạo lớn trong vùng, tạo điều kiện triển khai thí điểm các mô hình mới, đồng thời chia sẻ nguồn lực, kinh nghiệm quản trị và chuẩn chất lượng. Khi các trường tiên phong giữ vai trò độc lập nhưng hợp lực trong mạng lưới, tái cấu trúc không còn là biện pháp tình thế mà trở thành động lực để cả hệ sinh thái đại học vùng bứt tốc.
Theo PGS.TS Nguyễn Minh Hòa, Hiệu trưởng Trường ĐH Trà Vinh, trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2025 - 2030, tỉnh Vĩnh Long quyết định chọn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao làm khâu đột phá, song hành với phát triển hạ tầng vật lý và hạ tầng số. Các trụ cột chiến lược này, khi được triển khai đồng bộ, sẽ tạo nên nền tảng vững chắc để tỉnh tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, phù hợp với xu thế phát triển chung và kinh nghiệm quốc tế.
“Bên cạnh những nghiên cứu hàn lâm, nhà trường tập trung phần lớn nguồn lực cho nghiên cứu ứng dụng để giải quyết những vấn đề thực tiễn, đặc biệt là các nghiên cứu phục vụ phát triển cộng đồng và địa phương”, PGS.TS Nguyễn Minh Hòa nhấn mạnh.