Giai thoại kể lại rằng, cụ Nguyễn Công Hoàn là một con người tài hoa song con đường thi cử không không được hanh thông. Không thể đem tài giành phần thắng ở khoa trường được, cụ tức chí về nhà. Biết con trai là Nguyễn Bá Lân có trí thông minh hơn người nên cụ quyết tâm dạy con thành đạt.
Cụ Hoàn dạy con rất nghiêm khắc. Bộ sách Kể chuyện Danh nhân Việt Nam có ghi rằng, cụ thường xuyên so tài với con trai, lấy chính mình ra làm động lực và thách thức để con phải nỗ lực vượt qua. Bài phú “Dịch đình dương xa phú” (bài phú vua cưỡi xe dê đến các phòng cung nữ) của Bá Lân gắn liền với câu chuyện hai cha con đi đò qua sông Hồng.
Mộ và đền thờ Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân được xếp hạng di tích cấp quốc gia. |
Trong khi đang hướng tới Cổ Đô – nơi nổi tiếng về nghề dệt lụa, nhìn sang bên kia sông thấy có đàn dê đang nhởn nhơ, cụ Hoàn ra đề bài phú là “Dịch đình dương xa phú”. Nếu sang bờ bên kia, ai làm xong trước thì sẽ xô người còn lại xuống sông. Cụ Hoàn còn dặn thêm: “Cha không trách con đâu”. Biết tính nghiêm khắc của cha, Bá Lân cũng nhẩm trong đầu xong bài phú nhưng khi sang tới nơi, cậu lại không dám đọc vì sợ phải xô cha xuống sông.
Cụ Hoàn thấy con không nói năng gì, tưởng con trai chưa làm xong nhưng thật không ngờ con đã làm bài xong trước cả mình. Nguyễn Bá Lân không dám đẩy cha xuống sông, thế là cụ Hoàn bèn tự nhảy xuống sông như đã giao hẹn với con trai từ trước. Bài phú đó sau này nổi tiếng, được người đời truyền tụng là “Bài phú hoàn thành trên một chuyến đò ngang”.
30 tuổi đỗ Tiến sĩ
Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13, năm Đinh Dậu (1717), ông Nguyễn Bá Lân đọc tiếp “Thiên Lập” chính sách “Thượng Thư”. Đến tháng 6 thì khảo dự thi ở huyện, ông mới đọc hết “Tiểu Nhã và Đại Nhã”. Trong kỳ thi huyện khảo 3 kỳ, ông Nguyễn Bá Lân đỗ đầu. Đến khi khảo “sảo Thông”, ông bị quan hiến sứ lầm nghe lời gièm pha mà đánh tụt xuống thứ 11.
Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14, năm Mậu Tuất (1718) thi mùa xuân, ông Nguyễn Bá Lân trúng Tam trường. Khi đi thi về, ông bị bệnh sốt rét, đến tháng 9 mới đỡ ta liền đọc“tụng” trong kinh thư. Tiếp đó là đọc “Xuân thu - Chu dịch - Lễ ký” rồi đọc rộng ra tới sách “Tinh lý - Đề cương - Tứ đạo”. Lúc bấy giờ thấy học nghiệp hơi thành, lại có thể truyền thụ cho học trò.
Sĩ tử lên kinh dự thi thời phong kiến. Ảnh tư liệu |
Niên hiệu Bảo Thái thứ 1, năm Canh Tý (1720), Nguyễn Bá Lân tập làm văn theo trường Quốc Tử Giám. Qua 6 khoa xếp thứ 9 trở lên cũng có danh tiếng. Niên hiệu Bảo Thái thứ 2, năm Tân Sửu (1721) đến năm Giáp Thìn (1724), Nguyễn Bá Lân thi đều bị rớt kỳ thứ 2, chí đọc sách cũng giảm sút, chỉ chuyên việc giảng tập cho học trò. Mỗi khi có đầu đề phát ra bèn tự làm bài, bấy giờ thỉnh thoảng có bài làm cùng với học trò mà đưa lên quan khảo duyệt ai cũng biết đến. Sau ông Nguyễn Bá Lân bị bệnh nặng qua 5 - 6 tháng mới đỡ.
Niên hiệu Bảo Thái thứ 6, năm Ất Tỵ (1725), qua một kỳ tiễu tập, một kỳ đại tập, Bá Lân đều đỗ đầu Bộ Lại được bổ làm huấn đạo phủ Lâm Thao. Niên hiệu Bảo Thái thứ 7, năm Bính Ngọ (1726), sau khi khảo hạch học trò xong, Bá Lân đi làm nhiệm vụ ở trường thi Đông Sàng (nay ở xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây).
Niên hiệu Bảo Thái thứ 8, năm Đinh Mùi (1727), khoa thi Hội ở kỳ thứ 3, ông Nguyễn Bá lân dự trúng tuyển văn sách được khảo quan khuyên đỏ (khen ngợi) tới hơn 100 chỗ và xếp lên thứ nhất. Về thơ: “Kỳ lân phượng hoàng” và phú: “Ngũ tinh tự khuê” đã nêu lên bảng đầu, nhưng lại bị bỏ sót một vài chữ ở đầu đề. Khảo lập kế định xin xét lại xem các khoa trước có ai bị sót ở chữ đầu đề mà vẫn trúng tuyển (để viện tiền lệ đó mà xin cho Nguyễn Bá Lân đỗ vì bài văn hay quá) nhưng không có ai như thế cả, vì vậy nên ông Nguyễn Bá Lân không trúng tuyển. Thế nhưng bài văn ấy thiên hạ ai cũng chuyền tay nhau chép. Từ đó lòng hăm hở về học nghiệp của cụ bị nguội lạnh.
Cao niên trong dòng họ Nguyễn thủy tổ kể lại câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân. |
Niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 1, năm Kỷ Dậu (1729), ông Nguyễn Bá Lân thi đỗ nhận chức Huấn đạo đi làm việc. Bấy giờ quan giám thí là cụ Trần Ân Chiêm, vốn là bạn của cụ Nguyễn Công Hoàn mới thấy Nguyễn Bá Lân có chút học thức. Nhân đó tập hợp những người ứng điểm đã có danh vọng, để cho làm văn, rồi cụ Trần Ân Chiêm chỉ lấy quyển văn của Nguyễn Bá Lân là hạng ưu, ngoài ra không đếm xỉa đến văn của ai cả.
Niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3, năm Tân Hợi (1731), mùa đông mở khoa thi Hội, ông Nguyễn Bá Lân thi được đỗ đứng đầu, ở kỳ thi thứ 2. Kỳ thi thứ 4, Nguyễn Bá Lân trúng Hội Nguyên (đỗ đầu thi Hội). Kỳ thi Đình cụ (đỗ đầu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân)
Niên hiệu Long Đức, năm Nhâm Tý(1732) tháng 4, Nguyễn Bá Lân vinh quy nhận chức. Uy Nam Vương chúa Trịnh Giang bổ dụng nhận chức Tư Huấn. Nguyễn Bá Lân sau đó bước vào hoạt động quan trường đến hết cuộc đời. Trong thời gian hơn 50 năm làm quan, Bá Lân đã có tới 17 lần được thăng chức.