Từng giữ chức Thị lang, Tham tri, Tuần vũ triều nhà Nguyễn, Tổng đốc Nghệ An thuộc chính phủ Trần Trọng Kim, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công,
Từng giữ chức Thị lang, Tham tri, Tuần vũ triều nhà Nguyễn, Tổng đốc Nghệ An thuộc chính phủ Trần Trọng Kim, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành Bộ trưởng không bộ phụ trách 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Đó là Phó bảng Đặng Văn Hướng (1887 - 1954), người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu (nay là xã Tân Châu, Nghệ An). Gia đình ông có truyền thống thi thư, cha đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, anh trai đỗ Phó bảng; bạn bè đồng liêu nhiều người là danh sĩ nổi tiếng đương thời.
Ở phủ Diễn Châu xưa, có hai gia tộc danh gia được giới nho học trọng vọng, kính cẩn mỗi khi nhắc tới là họ Đặng Nho Lâm và Cao Xuân Thịnh Mỹ. Với họ Cao Xuân Thịnh Mỹ, phải nhắc tới Đại học sĩ, Thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục; còn nói đến họ Đặng Nho Lâm thì không thể không nhắc tới Đình nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thuỵ.
Mối liên hệ giữa hai gia tộc danh gia bắt đầu từ khoa thi Hương năm 1878, khi ấy Đặng Văn Thuỵ cùng cha là cụ Đặng Văn Bính và một danh sĩ họ Cao là Cao Xuân Dục tham gia ứng thí. Khoa thi ấy, cụ thân sinh đỗ Tú tài, Cao Xuân Dục đỗ Cử nhân, còn Đặng Văn Thuỵ lại trượt.
Cao Xuân Dục cảm mến tài năng của Đặng Văn Thuỵ nên giúp ông ăn học và gả con gái là bà Cao Thị Bích. Khoa thi Hương 1882, Đặng Văn Thuỵ đỗ Cử nhân, được bổ làm Huấn đạo Nông Cống (Thanh Hóa) rồi Giáo thụ phủ Diễn Châu. Khoa thi năm 1904, ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, cùng khoa thi với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Ông được vời về triều nhậm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, vài năm sau lại được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Hoàng giáp Đặng Văn Thuỵ có với bà Cao Thị Bích 11 người con (7 trai, 4 gái). Trong nếp nhà thi thư, Đặng Văn Hướng được học hành bài bản và trong số các anh em, ông được coi là người nổi trội. Năm 1906, tức khi 19 tuổi, ông tham gia ứng thí đỗ Cử nhân. 13 năm sau nhằm khoa Kỷ Mùi (1919) - cũng là khoa thi cuối cùng trong thời phong kiến, Đặng Văn Hướng ứng thí đỗ Phó bảng. Khoa thi này, anh trai ông là Đặng Văn Oánh cũng đỗ Phó bảng, sau làm Giáo thụ An Nhân.
Sử sách không ghi chép sau khi đỗ đạt, Phó bảng Đặng Văn Hướng nhậm chức gì. Tuy nhiên lại cho biết, ông tham gia học tiếng Pháp trong hai năm và đỗ Thành chung. Do có học vấn toàn diện nên ông được triều đình nhà Nguyễn bổ dụng và trải qua các chức: Huấn đạo, Giáo thụ phủ Diễn châu, Tri huyện, Tri phủ, Thị lang Công bộ, Tham tri bộ Hình, Tuần vũ tỉnh Hà Tĩnh.
Tính tình của ông khá giống người cha Đặng Văn Thuỵ ở sự thẳng thắn, cương trực, sẵn sàng lên tiếng phê phán quan trên - bất kể là ta hay Tây, lại nhiều lần biểu hiện chủ nghĩa dân tộc giống với nhiều sĩ phu đương thời nên triều đình nhà Nguyễn cho ông về hưu sớm với hàm Thượng thư.
Sau khi trí sĩ, Phó bảng Đặng Văn Hướng được mời tham gia nội các của chính phủ Trần Trọng Kim nhưng ông từ chối. Sau đó vì nhiều lời mời, lại nể nang bạn bè đồng liêu vốn cũng từng là quan nhà Nguyễn nên ông nhận lời làm Tổng đốc Nghệ An với tham vọng có thể góp sức mình trong việc chấn chỉnh quốc nội.
Trong thời gian ông làm Tổng đốc, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh được thành lập với sự tham gia của ông Trần Văn Cung (sau này là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ). Các nguồn ghi chép cho biết, khi ấy Tổng đốc Đặng Văn Hướng có quan hệ bí mật với Trần Văn Cung và ông Lê Viết Lượng (sau là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu IV, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên).
Trong vai trò Tổng đốc, Đặng Văn Hướng ra sức chu toàn bổn phận, vừa lo cho dân làm ăn vừa ngấm ngầm đối phó với phát-xít Nhật. Mặt khác, ông cùng Trần Văn Cung bí mật chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tại Nghệ An. Ông cho thay thế lãnh binh bằng ông Trần Văn Quang (sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng).
Chức Chánh văn phòng cũng được ông thay thế và giao cho ông Nguyễn Tạo (sau này là Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp). Đồng thời, một số tri huyện có xu hướng thân Pháp, Nhật cũng được thay thế bằng những người có xu hướng dân tộc…
Vì bộ máy chính quyền Nghệ An đã được “Việt Minh hóa” nên khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông bàn giao ấn tín, súng đạn, tiền của, hồ sơ từ chính quyền Trần Trọng Kim sang chính quyền cách mạng mà không tốn một viên đạn, giọt máu.
Một số tài liệu còn cho biết, sau đó xe của chính quyền cách mạng treo cờ đỏ sao vàng, rước ông về quê Nho Lâm rất trọng thị. Cũng vì có công nên khi thành lập Chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư “Kính gửi Công đại nhân Đặng Văn Hướng” và mời ông làm Bộ trưởng không bộ phụ trách 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Chính phủ mới” thay cho Chính phủ liên hiệp Kháng chiến, thành phần do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, thông qua ngày 3/11/1946 và được bổ sung cho đến năm 1955, ghi rõ: Chủ tịch nước, kiêm Thủ tướng - cụ Hồ Chí Minh, sau đó là các Bộ trưởng: Huỳnh Thúc Kháng (Bộ Nội vụ), Võ Nguyên Giáp (Bộ Quốc phòng), Phan Anh (Bộ Kinh tế)…
Riêng Bộ trưởng không bộ đầu tiên được xác định là cụ Nguyễn Văn Tố (hi sinh năm 1947), sau đó đến Đặng Văn Hướng (từ năm 1947), sau Đặng Văn Hướng là Bồ Xuân Luật.
Bộ trưởng không bộ là một chức vụ trong Chính phủ, tương đương với Bộ trưởng các bộ nhưng không đứng đầu một Bộ cụ thể. Thay vào đó, Bộ trưởng không bộ được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định hoặc tham gia vào hoạt động chung của Chính phủ.
Trong vai trò Bộ trưởng không bộ, Đặng Văn Hướng cùng các bí thư, chủ tịch 3 tỉnh ra sức kêu gọi đồng bào ra sức kiến quốc, góp công, góp sức cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, ông qua đời tại quê hương Nho Lâm - nơi “rừng chữ, rừng nho”, để lại tiếng thơm thanh quan và những vinh dự của công cuộc góp sức mình vào thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Theo gia phả họ ngoại (Cao Xuân), Phó bảng Đặng Văn Hướng kết hôn với bà Hoàng Thị Hiến, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương - anh ruột học giả Hoàng Đạo Thúy. Ông bà có với nhau 8 người con: 3 trai, 5 gái. Trong đó, bà Đặng Thị Tâm là Giáo sư ngành Tâm lý trẻ em tại Illinois (Hoa Kỳ), ông Đặng Văn Ký là Giáo sư ở Đại học Bách khoa (Pháp); đặc biệt là ông Đặng Văn Việt (1920 - 2021) - người được mệnh danh là “Hùm xám đường số 4”.
Theo nghiên cứu của tác giả Kiều Mai Sơn, ngày 21/8/1945, cùng với Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng - PGS Cao Pha, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam), Đặng Văn Việt được cử hạ lá cờ quẻ ly của triều Nguyễn, kéo lá cờ đỏ sao vàng của chính quyền cách mạng lên kỳ đài trước Ngọ Môn (Huế). Sau đó, hai ông lại nhận lệnh đi bắt cựu Tổng đốc Ngô Đình Khôi trong ngày Huế khởi nghĩa (ngày 23/8/1945).
Trước đó, đang là sinh viên Y khoa Đại học Đông Dương, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ông về Huế trở thành học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến do Bộ trưởng Bộ Thanh niên Phan Anh mở. Từ những kiến thức quân sự vỡ lòng ở ngôi trường này do thầy Phan Tử Lăng - Hiệu trưởng huấn luyện, Đặng Văn Việt tham gia xây dựng lực lượng vũ trang.
Nguồn gia phả họ Cao Xuân cho biết, ngay sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Đặng Văn Việt tham gia quân đội và trở thành một trong những chỉ huy đầu tiên. Do nền tảng kiến thức tổng quát và quân sự cơ bản được đào tạo, ông được chỉ định làm Phân đội trưởng Phân đội 1 (gồm 36 người) của Giải phóng quân, trấn giữ tại cửa Thuận An. Tại đây, ông đã chỉ huy bao vây chiếc tàu đầu tiên của Pháp định quay lại chiếm Huế, bắt sống một Đại úy Pháp, Đại đội trưởng thuộc Trung đoàn do tướng Alessandri chỉ huy.
Khi quân Pháp chiếm Huế, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9 (Hạ Lào 1945), rồi Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 7 (Thượng Lào 1946), thực hiện nhiều cuộc giao chiến làm giảm sức tiến công của quân Pháp. Sau đó, ông được điều ra Việt Bắc làm lãnh đạo Ban Nghiên cứu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. Một thời gian ngắn ông được cử làm Chủ nhiệm Quân y.
Năm 1947, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 4. Năm 1948, ông kiêm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28. Ông đã chỉ huy quân đội Việt Minh hoạt động dọc tuyến đường số 4, tổ chức nhiều trận phục kích và công đồn, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng quân Pháp đồn trú tại đây, phần nào giảm bớt áp lực của quân Pháp ở chiến khu Việt Bắc.
Do những chiến tích lẫy lừng trên đường số 4, đặc biệt với các trận phục kích trên đèo Bông Lau từ năm 1947 đến 1949, tiêu diệt hơn 100 xe giới quân sự Pháp, nhân dân vùng Cao - Bắc - Lạng xưng tụng ông là “Đệ tứ lộ Đại vương”, còn các binh sĩ Pháp gọi ông với nhiều biệt danh khác nhau như “Hùm xám đường số 4” (le Tigre gris de la RC4), “tiểu tướng Napoléon” (mon petit Napoléon)...
Khi Trung đoàn 174 chủ lực được thành lập ngày 19/8/1949, trên cơ sở hợp nhất lực lượng của 3 trung đoàn thuộc 3 tỉnh: Trung đoàn 74 (Cao Bằng), Trung đoàn 72 (Bắc Cạn), Trung đoàn 28 (Lạng Sơn), ông được cử làm Trung đoàn trưởng đầu tiên và Chu Huy Mân làm Chính ủy đầu tiên.
Ngày 16/9/1950, Đặng Văn Việt chỉ huy Trung đoàn 174, phối hợp với Trung đoàn 209, chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, mở đầu Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, sau đó bao vây cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Chỉ trong vòng một tháng, chiến dịch kết thúc với thắng lợi rực rỡ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong đó có phần không nhỏ của Đặng Văn Việt và Trung đoàn 174 do ông chỉ huy.
Sau chiến dịch Biên giới, ông tiếp tục chỉ huy Trung đoàn tham gia nhiều chiến dịch lớn khác như chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Hòa Bình, phá hủy căn cứ Đồng bằng Bắc Bộ của quân Pháp (1952)...
Năm 1958, trong đợt phong quân hàm chính quy đầu tiên của quân đội, ông được phong quân hàm Trung tá. Ra quân năm 1960, ông tiếp tục chiến đấu trên mặt trận xây dựng 20 năm, trong đó 15 năm liên tục chỉ làm Cục phó ở Tổng cục Thủy sản đến khi nghỉ hưu.
Do từng là một trong những sĩ quan cao cấp thời kỳ đầu và từng có thời gian gắn bó với chiến trường đường số 4, từ năm 1985 ông Đặng Văn Việt bước vào con đường văn chương. Ông viết và dịch nhiều hồi ký liên quan đến con đường và giai đoạn lịch sử này. Đặc biệt, với hồi ký “Đường số 4 rực lửa”, ông được tặng giải thưởng cao nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam vào năm 1999. Hồi ký được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết lời tựa, Đại tướng Hoàng Văn Thái viết lời giới thiệu. Một số tác phẩm của bản thân cũng được ông dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh để giới thiệu ra quốc tế.