Các chỉ số về nghiên cứu khoa học, xếp hạng trường đại học tại báo cáo trên cho thấy Việt Nam bị bỏ xa so với nhiều nước trong khu vực. Theo bảng xếp hạng Times Higher Education gần đây, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lọt vào top 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Nhưng theo bảng tổng hợp vị trí các cơ sở đại học trong một số bảng xếp hạng top 1.000, Việt Nam vẫn ở vị trí cuối cùng. Cụ thể, Việt Nam chỉ có 2 trường trong top 1.000 trường đại học bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symonds) và 2 trường lọt vào top 1.000 trường đại học bảng xếp hạng THE (xếp hạng Times Higher Education). Trong khi đó, con số này của Trung Quốc lần lượt là 40 và 63, Vương quốc Anh là 76 và 92, Đức là 45 và 47, Nhật Bản là 44 và 51, Hàn Quốc là 30 và 24, Malaysia là 13 và 9…
Nhận định của nhóm nghiên cứu cho rằng, hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học Việt Nam có sự cải thiện đáng kể trong một thập kỷ qua.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cho rằng nguồn tài chính công dành cho giáo dục đại học của Việt Nam chưa tương xứng với mục tiêu phát triển quốc gia trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2035.
Theo bảng số liệu trong báo cáo, tổng GDP quốc gia là 5.006 nghìn tỷ đồng. Trong đó chi cho giáo dục (không bao gồm học phí) là 247.000 tỷ đồng (riêng chi cho giáo dục đại học là 17.000 tỷ đồng).
Một số liệu tại báo cáo cho biết từ năm 2008-2018 (10 năm), đóng góp từ các hộ gia đình cho giáo dục đại học tăng gấp đôi.
Báo cáo cũng cho rằng, trường đại học và viện nghiên cứu vẫn hoạt động độc lập, việc giảng dạy tách khỏi nghiên cứu công lập. Nguồn nhân lực và tài chính bị phân tán nên không thể hình thành sự xuất sắc trong nghiên cứu và giảng dạy.
Nhóm nghiên cứu kiến nghị cần phát triển giáo dục đại học theo hướng tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, có tư duy đổi mới sáng tạo và đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Nhật Nam