Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong lá và nụ vối đều có tính kháng sinh đối với một số vi trùng Gram+ và Gram- ở tất cả các giai đoạn phát triển. Chất kháng sinh (kháng khuẩn) thường tập trung cao nhất ở lá vào mùa Đông. Hoạt chất kháng sinh tan trong nước, các dung môi hữu cơ, vững bền với nhiệt độ và ở các môi trường có độ Ph từ 2-9.
Chúng tác dụng mạnh nhất đối với Streptococus (hemolytic và staman), sau đến vi trùng bạch hầu và Staphyllococcus và Prieumococcus. Hoàn toàn không có độc đối với cơ thể người.
Lá vối đắng, chát, thơm, tính bình (có loài tính mát).
Thanh nhiệt, giải biểu, sát trùng, hạ khí, tiêu đờm. Lá và nụ vối từ lâu được nhân dân ta nấu nước để uống vừa thơm, vừa tiêu thực, kích thích tiêu hóa, tán thũng, chỉ huyết, sinh cơ.
Lá vối tươi hay khô sắc đặc được xem có tính chất sát trùng để rửa những mụn nhọt, lở loét, ghẻ, ngứa. Nói chung uống trong nên dùng nụ lá khô, bôi rửa ngoài nên dùng tươi.
Các bộ phận từ cây vối có tác dụng điều trị trướng đầy, nôn mửa, viêm đường ruột (viêm đại tràng mạn), viêm họng, bệnh ngoài da, vết thương do cháy bỏng, ngoại thương xuất huyết, trùng độc cắn, rắn cắn.
Liều dùng: 8-12g/ngày.
Dạng dùng: Có thể dùng dưới dạng thuốc sắc, thuốc cao hoặc thuốc viên, hoặc chế dưới dạng muối natri.
Trên đây là những công dụng của cây vối. Nếu bạn muốn sử dụng cây vối thường xuyên cần tham khảo qua ý kiến của các chuyên gia nhé.