“Nếu vẫn tồn tại cơ chế xin - cho độc quyền mua điện rồi bán điện thì có thể trục lợi từ những chính sách phi thị trường, phi cạnh tranh lành mạnh”, ông Việt cho hay.
Theo đó, chính sách này không thể thu hút người dân cũng như doanh nghiệp chấp nhận bỏ vốn đầu tư. Bên cạnh đó, việc không thể bán điện dư thừa hoặc khấu trừ vào tổng sản lượng sử dụng dẫn đến không hiệu quả tổng thể khi đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời, nhất là tại khu vực có chênh lệch lớn về hiệu suất điện mặt trời theo thời điểm như ở miền Bắc.
Hiện tại, các hệ thống điện mặt trời mái nhà tại miền Bắc chỉ khoảng 6%, Hà Nội chưa tới 0,4%. Công suất chủ yếu tập trung ở miền Nam, Trung (chiếm gần 90%). Trong đó, tỷ lệ lắp trên mái nhà ở riêng lẻ, công trình dân dụng chỉ 17%.
Càng đáng quan ngại hơn khi các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu đòi hỏi sử dụng năng lượng sạch với tỷ lệ nhất định; trong khi nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng, năng lực tự đầu tư, vận hành hệ thống năng lượng mặt trời, thực tiễn đòi hỏi cần có đối tác trung gian thực hiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
“Dự thảo nghị định hiện không hình thành thị trường mua - bán, đầu tư trong việc lắp hệ thống điện mặt trời mái nhà, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp mặc dù nhu cầu hiện hữu cũng như hệ sinh thái mua - bán này thực tế đã hình thành, đặc biệt tại các khu chế xuất, khu công nghiệp”, ông Việt cho biết.
Để phát triển mô hình năng lượng mặt trời mái nhà cũng như khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư điện mặt trời, nhiều chuyên gia năng lượng đề xuất ngành điện nên học hỏi kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới cho phép các hộ gia đình, doanh nghiệp đầu tư hệ thống điện mặt trời mái nhà được phép khấu trừ sản lượng tiêu thụ trong chu kỳ thanh toán như kiểu tín dụng, tính giá điện mặt trời bằng 1 tỷ lệ nhất định so với giá mua lại từ lưới điện.
Chuyên gia Lê Phan Tuấn cho rằng, muốn có cơ chế cân bằng, cần chuyển đổi nhanh qua giá điện 2 thành phần và cho phép mở rộng kinh doanh điện ở khâu dùng điện cuối. Khi đó tách rõ giá điện dịch vụ phụ trợ, và giá điện lưới phân phối và bán lẻ.
Như vậy, giá điện cuối cùng khách hàng trả sẽ gồm 2 giá, giá cố định và giá biến đổi (trong giá biến đổi có dịch vụ phụ trợ hay còn gọi dịch vụ cân bằng), giá cố định này thường chính là giá truyền tải, giá phân phối và giá điện công suất nguồn của các nhà máy truyền thống nằm chờ không phát.
Trong đó, phần giá biến đổi là giá nhiên liệu phát điện, giá điện năng lượng tái tạo, giá dịch vụ cân bằng. Khách hàng luôn phải trả chi phí cố định cho điện lực để bảo toàn hệ thống hạ tầng và nguồn điện dự phòng khi không có năng lượng tái tạo. Phần còn lại, người sử dụng điện tự do lựa chọn, có thể mua điện hoặc tự phát điện.
Hiện cả Bộ Công Thương lẫn EVN cũng đã và đang xây dựng cơ chế giá điện 2 thành phần (gồm giá công suất và giá điện năng cho các nhóm khách hàng khi điều kiện kỹ thuật cho phép). Đây sẽ là cơ sở đảm bảo việc đầu tư hạ tầng truyền tải điện đáp ứng được sự hình thành thị trường bán điện trực tiếp.