Diện tích rừng ngập mặn lại liên tục giảm đi, không chỉ do ảnh hưởng từ các hoạt động của con người, mà còn do chính các thiên tai như bão, sóng thần. Những tai biến như thế để lại các hậu quả nghiêm trọng và lâu dài về mặt sinh thái - môi trường và có thể kéo theo các bất ổn về tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở những quốc gia có mức độ lệ thuộc của sinh kế vào tự nhiên còn cao như Việt Nam.
TS Nguyễn Thị Lan Thi cho biết, sau bão, việc để các thân cây gãy đổ phân hủy tự nhiên lại khiến cho tình trạng dinh dưỡng nitrogen trầm tích được cải thiện rất nhanh chóng và kết quả là một quá trình tái sinh của thảm thực vật bậc cao tuy khởi sự trễ nhưng tăng trưởng nhanh và tốt, khiến nó nhanh chóng đuổi kịp thảm thực vật tái sinh sớm ở vùng có dọn về mặt đa dạng sinh học.
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng ít bị rủi ro sinh cảnh do nằm sâu trong rừng, cách xa vùng ven biển nơi bị tác động của xói mòn và sạt lở.
Giải pháp xử lý môi trường rừng xáo trộn do bão được đề xuất là giữ nguyên các thân cây đổ trên sàn rừng và để chúng phân hủy tự nhiên sau xáo trộn. Đây là giải pháp hữu hiệu cho việc phục hồi rừng ngập mặn sau các biến cố tự nhiên như bão, sét đánh.
Giải pháp đưa ra từ kết quả của nghiên cứu này cũng có thể được áp dụng cho các vùng rừng ngập mặn có cây gãy đổ do các nguyên nhân khác (ngoại trừ các vùng cây chết do sâu bệnh) và đối với các sản phẩm tỉa thưa.
Nhóm cũng đưa ra kiến nghị cần có những nghiên cứu rất chi tiết về dịch tiết rễ và hoạt động của quần xã vi sinh vật trầm tích. Cần xây dựng một khung chương trình quan trắc định kỳ mỗi 2 năm.
Nội dung của chương trình quan trắc này tập trung vào diễn biến thành phần loài và cấu trúc của thảm thực vật trong mối liên hệ với tình trạng dinh dưỡng của nền trầm tích và chương trình quan trắc này cần kéo dài ít nhất đến khi quần xã đạt trạng thái đỉnh cực.
Cần theo dõi, đánh giá những thay đổi (nếu có) trong vai trò của rừng ngập mặn đối với mức độ đa dạng sinh học và chất lượng của các loài thủy sản, đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế, sống trong những thủy vực lân cận.
Ngoài ra, xây dựng ngân hàng gen cho các loài cua còng ghi nhận theo thời gian trong khu vực; mô phỏng giả lập các tác động của cua còng lên sự phục hồi thảm thực vật thông qua hoạt động sống, sinh trưởng và phát triển; phân lập khu hệ vi sinh vật trong bao tử còng trong vai trò phân hủy vật rụng và cung cấp dinh dưỡng cho nền trầm tích; và tiếp tục đánh giá cấu trúc quần xã cua còng trong khu vực cho thấy tác động lên sự phục hồi cây mầm đặc biệt giữa sinh cảnh gãy đổ có dọn và không dọn.
“Kết của đề tài đã đưa ra phương pháp phục hồi, tái sinh rừng ngập mặn Cần Giờ sau thiên tai, bão lũ, đảm bảo hệ sinh vật phục hồi nhanh nhất, ít ảnh hưởng đến rừng nhất”, TS Nguyễn Thị Lan Thi cho hay.