Như vậy, xếp về thứ hạng thì Đỗ Huy Liêu đã vượt qua cả cha và ông nội, đúng như câu ca “con hơn cha, nhà có phúc”. Sau khi đỗ, Đỗ Huy Liêu được bổ làm Hàn lâm viện trước tác, sau đó bổ giữ chức Tri phủ Đoan Hùng (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Tháng Bảy năm sau, triều đình đổi ông làm Tri phủ Lâm Thao. Tháng Tư năm 1882, ông được thăng làm Án sát Hà Nội. Tháng 5 năm 1882, cha mất nên ông về nhà cư tang.
Năm Giáp Thân (1884), vua Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13, Đỗ Huy Liêu được triệu vào kinh làm Biện lý bộ Hộ, rồi Tham Tá nội các sự vụ. Trong khoảng thời gian này, ông còn giữ chức Phụ đạo, dạy cho vua học và dạy cho hai con của Phụ chính Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp, sau này đều là các dũng tướng trong phong trào Cần Vương chống Pháp.
Năm 1885, quân Nam đánh úp quân Pháp ở Huế không thành, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi xuất bôn. Đỗ Huy Liêu bị quân Pháp bắt giam vì có liên can. Để mua chuộc, sau đó người Pháp thả tự do và cho ông làm Bố chính Bắc Ninh, nhưng ông cương quyết từ chối.
Về lại quê hương La Ngạn, ông lo phụng dưỡng mẹ già. Theo chí sĩ Phan Bội Châu thì sau khi quân Pháp đánh chiếm Nam Định, Đỗ Huy Liêu cùng với bạn là Vũ Hữu Lợi (lúc bấy giờ cũng đang bỏ quan về đây dạy học), ngầm chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa chiếm lại tỉnh thành này.
Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa không thành, vì bị Tổng đốc Vũ Văn Báo cáo giác. Dụ hàng không được, Vũ Hữu Lợi bị quân Pháp chém chết tại chợ Nam Định vào đầu năm 1887, còn Đỗ Huy Liêu thì bị bắt giam đến mấy năm mới được tha, nhưng vẫn phải chịu sự quản thúc của chính quyền thực dân Pháp.
Từ đường nhà bia họ Đỗ tại làng La Ngạn. |
Ngày 1 tháng 5 năm Tân Mão (tức 7/6/1891), tổ chức xong lễ mãn tang cho mẹ vào buổi sáng thì buổi chiều Đỗ Huy Liêu đột ngột từ trần ở tuổi 47.
Theo Phan Bội Châu, thì Đỗ Huy Liêu đã uống thuốc độc tự vẫn. Trong sách “Việt Nam vong quốc sử”, Phan Bội Châu viết: “Nước mất, cùng với Vũ Hữu Lợi đồng mưu, (ông bị) người Pháp bắt giam trong nhà pha, cấm không cho ăn uống. Liêu vì còn mẹ già không có ai nuôi, nên không dám chết, ngồi tù đợi mệnh như thế đến mấy năm.
Sau... Liêu được tha vì mới âm mưu khởi loạn, chưa có thực trạng, nhưng hàng tháng phải đến điểm danh trình diện với Tây một lần... Mẹ mất rồi, hết hạn để tang, ông mời tất cả môn sinh tử đệ đến dặn rằng: “Trước đây sở dĩ bo bo không nỡ chết là vì có mẹ già. Nay tang mẹ xong rồi, ta chết đây”. Liền uống thuốc chết.
Sau khi xong cư tang mẹ, Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu đã uống thuốc độc tự vẫn vì những uất ức thời cuộc. Ảnh minh họa: IT. |
Phong tư ông ôn nhã mà vẫn bao hàm vẻ lẫm liệt không ai xâm phạm đến được. Người ta có nói đến người Pháp và việc bị người Pháp nô lệ, ông chỉ mỉm cười không đáp. Nhưng cái chí báo thù của Tử Phòng, Gia Cát thực không khoảnh khắc nào quên. Bị người Pháp bó buộc nghiêm ngặt quá, không thể cựa quậy được, ông ôm chí cho đến chết”.
Theo các nguồn sử liệu, khi hay tin Đỗ Huy Liêu qua đời đã gây xúc động trong giới sĩ phu và nhân dân lúc bấy giờ. Có nhiều bài thơ và câu đối điếu ông. Trong đó có câu đối điếu bằng chữ Hán của Tổng đốc Nam Định là Cao Xuân Dục: “Cái kỳ sinh kỳ cố kỳ tử diệc kỳ, mạc hoặc giả nhân trọc nhi ngã thanh, nhân túy nhi ngã tinh, thuật lai chúc tử sổ ngôn, quát nhãn quan hà lưu thế lệ/ Duy kỳ hành hiển, cố kỳ tàng diệc hiển, dĩ yên tai tương kiến năng kỷ thời, tương thức năng kỷ nhân, tài khứ đàm thân nhất nhật, hồi đâu thân thế hận ba đào”.
(Lúc sống vốn kỳ, lúc chết cũng kỳ, có phải chăng người say mà ta tỉnh, người đục mà ta trong, những trối trăng con cháu đôi lời, ngoảnh lại non sông giàn nước mắt/ Khi xuất đã rõ, khi xử càng rõ, rành là thế cùng hiểu nào mấy người, cùng gặp nào mấy độ, vừa xong tang mẹ già một bữa, đoái trông thân thế hận ba đào).
Theo nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống, các tác phẩm của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu gồm: Điện thí chế sách (văn sách thi Đình), Đông La thi tập (trong bộ La Ngạn Đỗ đại gia thi tập), Đông La văn tập, La Ngạn biện lý xã (Soạn chung với Đỗ Huy Uyển), La Ngạn Đỗ đại gia phú tập, Tân Xuyên văn tập, Tỉnh Ông thi tập…
Dòng họ Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu không chỉ có ba vị đại khoa, là những danh sĩ nổi tiếng triều Nguyễn, một số người khác trong dòng tộc tuy không tham gia thi cử nhưng học giỏi nổi tiếng và làm nghề dạy học. Đây là gia đình mà cha con, ông cháu đều đỗ đạt. Hiện trong từ đường họ Đỗ còn treo đôi câu đối: Lục triều trung hiếu gia sinh Phật/ Tam thế khoa danh quốc phúc hầu (Sáu triều trung hiếu nối nhau, Phật sống trong nhà sao hiếm thấy/ Ba đời khoa danh hiển hách, phúc thần được nước kính dâng thờ).