Chính sách giáo dục

Khát vọng đưa giáo dục Việt Nam vào top 20 thế giới

Hiếu Nguyễn (Thực hiện) 24/09/2025 11:54

Nghị quyết số 71-NQ/TW đặt mục tiêu đến 2045, Việt Nam có hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, nằm trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới.

Giờ học tại Trường THCS&THPT Sư phạm, thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Ảnh: NTCC
Giờ học tại Trường THCS&THPT Sư phạm, thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Ảnh: NTCC

Đây là khát vọng lớn lao nhưng đầy thách thức. TS Tôn Quang Cường - Chủ nhiệm Khoa Công nghệ giáo dục, Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) trao đổi xung quanh nội dung này.

Vì sao đây là mục tiêu khả thi?

- Ông nhìn nhận thế nào về tính khả thi và ý nghĩa của mục tiêu đưa giáo dục Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới?

- Có thể khẳng định, kỳ vọng đưa giáo dục Việt Nam vào Top 20 thế giới vào năm 2045 không phải khẩu hiệu mà là niềm tin vững chắc vào một bản thiết kế giáo dục quốc gia.

Đây là mục tiêu đầy dũng cảm và có cơ sở, nếu chúng ta thống nhất coi giáo dục là chiến lược phát triển năng lực quốc gia. Thực tế cho thấy, nhóm “Top 20” không phải “bảng phong thần ngẫu hứng”, mà là sự hiện diện của những hệ thống giáo dục có thiết kế thể chế nhất quán, bền bỉ. Đặc trưng của chúng là triết lý phát triển con người toàn diện, nghề giáo được coi là tinh hoa, nguồn lực được phân bổ công bằng, quản trị minh bạch, sự kết nối chặt chẽ giữa giáo dục với khoa học - công nghệ cùng thị trường lao động. Dưới là những cơ sở cho tính khả thi của mục tiêu này:

Thứ nhất, Việt Nam đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, với quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ Bộ Chính trị và Nhà nước, bảo đảm sự ủng hộ dài hạn cùng nguồn lực cho phát triển bền vững. Nghị quyết cũng đề ra chủ trương lớn về đổi mới thể chế, phân cấp, phân quyền và tăng cường tự chủ trong giáo dục, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để hệ thống giáo dục phát triển hiệu quả và bền vững.

Thứ hai, phát triển nhân lực giáo dục và chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo được coi là nhiệm vụ then chốt. Các chính sách ưu đãi, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đang từng bước được đồng bộ hóa, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tạo cú hích cho cải cách giáo dục. Đồng thời, việc đổi mới thể chế, mở rộng tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình xã hội của các cơ sở giáo dục, cùng với ứng dụng chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, đào tạo và đảm bảo tiếp cận giáo dục công bằng.

Thứ ba, lộ trình phát triển giáo dục đã được xác định rõ, bao gồm: Mở rộng tỷ lệ tiếp cận giáo dục đạt chuẩn quốc gia; nâng cao chất lượng giáo dục đại học và nghề nghiệp; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo với các chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm về công bố quốc tế và đăng ký sáng chế. Cùng đó, Việt Nam đang đẩy mạnh hợp tác, hội nhập giáo dục quốc tế sâu rộng, thu hút nguồn lực, công nghệ và tri thức từ các quốc gia phát triển, qua đó nâng cao các tiêu chuẩn giáo dục theo thông lệ quốc tế.

Có thể nói, điều kiện nền tảng chính trị ổn định, nguồn lực được tập trung hóa cho đổi mới thể chế, công nghệ được duy trì mạnh mẽ, liên tục, khả năng vượt qua các thách thức xã hội và toàn cầu phức tạp chính là những tiền đề tạo nên tính khả thi để đạt mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia giáo dục hàng đầu thế giới đến năm 2045.

khat-vong-dua-giao-duc-viet-nam-vao-top-20-the-gioi-2.jpg
TS Tôn Quang Cường. Ảnh: NVCC

Thách thức, rào cản cần vượt qua

- Ngoài thuận lợi cơ bản như trên, ông nhìn nhận ra sao về thách thức chúng ta phải vượt qua để đạt được mục tiêu này?

- Một số khó khăn, thách thức trước mắt cùng những yếu tố đặc thù của bối cảnh giáo dục Việt Nam và xu hướng phát triển toàn cầu cần được nhận diện như sau:

Khoảng cách về nguồn lực và sự bất bình đẳng vùng miền còn lớn, đặc biệt tại khu vực dân tộc thiểu số, vùng sâu, xa, ảnh hưởng trực tiếp đến công bằng và chất lượng giáo dục - một chỉ số trọng yếu trong đánh giá hệ thống giáo dục quốc gia.

Cơ sở hạ tầng, chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở nhiều nơi còn hạn chế, khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn quốc tế, đòi hỏi một lộ trình căn cơ và thời gian phù hợp để cải thiện đồng bộ.

Bên cạnh đó, thực tiễn và năng lực nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo của chúng ta vẫn ở mức thấp so với các quốc gia trong nhóm 20 hàng đầu thế giới, cần có sự đầu tư mạnh mẽ cùng các chính sách hỗ trợ mang tính trọng tâm, trọng điểm, tránh phân mảnh hoặc dàn trải.

Áp lực từ thị trường lao động, đặc biệt trước sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ cùng tốc độ phát triển và cạnh tranh trong các hệ thống giáo dục toàn cầu, là thách thức lớn. Nhiều quốc gia đang đầu tư mạnh mẽ để đổi mới giáo dục, nâng cao vị thế quốc tế, điều đó đòi hỏi giáo dục Việt Nam phải liên tục, kiên trì đổi mới, tạo được “gia tốc thông minh” nhưng không gây xáo trộn hệ thống.

can-giai-phap-can-cot-ve-doi-ngu-4.jpg
Giờ học tại Trường THPT Phú Bài (TP Huế). Ảnh: NTCC

Phối hợp, đổi mới sâu rộng nguồn lực

- Với thuận lợi, khó khăn như trên, theo ông, giáo dục Việt Nam nên đi theo những gợi ý và kịch bản nào để rút ngắn khoảng cách?

- Chúng ta đang đặt ra mục tiêu sau 2 thập kỷ nữa hệ thống giáo dục quốc dân sẽ đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới trong bối cảnh họ cũng đang trên đà đổi mới và phát triển. Đây là những thách thức rất lớn và cũng là cơ hội chưa từng có trong cuộc cạnh tranh tri thức toàn cầu khốc liệt. Có thể đưa ra một số điểm then chốt cho lộ trình này như sau:

Cải cách chương trình, phương pháp dạy học trong giáo dục phổ thông theo tiếp cận “học để sáng tạo và hợp tác”, nhấn mạnh yếu tố “thẩm quyền học tập”, hoàn thiện chuẩn năng lực cốt lõi và đổi mới kiểm tra, đánh giá theo năng lực trên cơ sở định vị chuẩn đầu ra và đo lường minh bạch. Công cụ đi kèm là đánh giá định kỳ quốc gia thích ứng trên máy tính (CBT), bảng điểm năng lực cá nhân hóa và các tham chiếu quốc tế, hồ sơ năng lực cho học sinh tốt nghiệp.

Đột phá trong xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên dựa trên khung chuẩn năng lực nghề dạy học, gắn lộ trình thăng tiến với chính sách đãi ngộ cạnh tranh, nâng chuẩn đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên theo mô hình cộng đồng chuyên môn nghề nghiệp và cộng đồng thực hành. Nghề giáo trở lại nhóm hấp dẫn hàng đầu đối với người học giỏi.

Đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục đại học theo nhiều phương thức: Thiết kế “cụm đại học nghiên cứu - đổi mới sáng tạo” liên kết với doanh nghiệp cũng như mạng lưới đại học Top 500 thế giới. Giai đoạn 2026 - 2030, mở rộng đồng hướng dẫn, phòng thí nghiệm liên kết với đối tác nước ngoài, gia tăng số lượng các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh để thu hút người học quốc tế, tăng mạnh công bố quốc tế ứng dụng, sở hữu trí tuệ, định vị thương hiệu giáo dục Việt Nam toàn cầu.

Thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền trên hạ tầng số tới mọi điểm trường, triển khai lớp học kết hợp và học liệu số mở. Có chính sách ưu tiên thiết bị, giải pháp kết nối hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên vùng khó, mở rộng các trung tâm hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số, đảm bảo cơ hội tiếp cận công bằng trong chất lượng giáo dục.

Triển khai nền tảng dữ liệu giáo dục quốc gia (EduID) kết nối và liên thông với VNeID, thống nhất dữ liệu trường, lớp, người học, giáo viên. Tích hợp phân tích dự báo nhân lực, hoàn thiện hạ tầng dữ liệu và chuẩn mở, ứng dụng phân tích học tập, cảnh báo sớm rủi ro trong giáo dục. Thực hiện hoạch định chính sách theo thời gian thực, chi tiêu công tối ưu dựa trên bằng chứng. Những hệ thống vận hành tốt nhất trên thực tế giáo dục của các nước đều kết hợp tự chủ nhà trường với trách nhiệm giải trình mạnh mẽ dựa trên dữ liệu công khai.

Kết nối giáo dục với đổi mới sáng tạo và thị trường lao động thông qua chuẩn năng lực số, khởi nghiệp và năng lực xanh cho mọi bậc học. Đưa hệ thống vi tín chỉ và văn bằng mô-đun vào giáo dục, công nhận lẫn nhau trong hệ thống, giữa nhà trường với doanh nghiệp, tổ chức, thị trường lao động. Tích hợp sớm, hiệu quả các học kỳ thực tập, ứng dụng, rèn nghề trong chương trình giáo dục và đào tạo, hình thành “xa lộ” chuyển giao tri thức từ cơ sở giáo dục vào doanh nghiệp.

Mở rộng các thiết chế học tập cộng đồng, hình thái giáo dục phi truyền thống dựa trên nền tảng công nghệ: giáo dục đại học mở, thư viện số, tài khoản học tập cá nhân. Tạo cơ chế công nhận kết quả học tập phi chính quy, không chính quy, thúc đẩy học tập suốt đời và xã hội học tập.

Trong lĩnh vực quản lý giáo dục: Thúc đẩy xã hội hóa đi đôi với quản trị minh bạch. Thu hút doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp công nghệ giáo dục, tổ chức xã hội đầu tư vào giáo dục thông qua quỹ đồng đầu tư, ưu đãi thuế. Đồng thời, thiết lập cơ chế kiểm định độc lập, công khai dữ liệu chất lượng và khung trách nhiệm giải trình: Mọi cơ sở giáo dục đều “đo được - so được - giải trình được”.

Về vai trò lãnh đạo và quản lý ngành: Cần có sự lãnh đạo nhất quán và điều phối liên ngành. Giáo dục phải đi cùng khoa học - công nghệ, lao động - xã hội, tài chính, thông tin - truyền thông. Ưu tiên đầu tư ban đầu cho giáo viên, dữ liệu và hạ tầng số, chuyển dần sang cơ chế tài trợ theo kết quả. Trao quyền cho nhà trường, lắng nghe giáo viên - phụ huynh - học sinh, mạnh dạn áp dụng thí điểm, thử nghiệm đến phổ biến có kiểm soát, nhanh chóng nhân rộng cái đúng, dừng sớm cái chưa hiệu quả.

khat-vong-dua-giao-duc-viet-nam-vao-top-20-the-gioi-3.jpg
Ảnh: NTCC

Bài học từ kinh nghiệm quốc tế

- Từ kinh nghiệm quốc tế, theo ông, đâu là những bài học quan trọng mà Việt Nam có thể tham khảo?

- Nhìn vào các nền giáo dục tiên tiến có thể thấy ba trụ cột tạo nên hệ thống vững chắc là hiện đại, công bằng và chất lượng - được vận hành như một hệ sinh thái chứ không phải chỉ tập hợp những công việc cần làm.

Khung tiêu chí “hiện đại, công bằng, chất lượng” trước hết thể hiện ở cách tổ chức nhà trường và thiết kế học tập: Lấy người học thực sự làm trung tâm, xây dựng chương trình tích hợp, dạy học dựa trên năng lực, chú trọng năng lực số, tư duy phản biện, sáng tạo, hợp tác và phẩm chất công dân toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, công nghệ số là đòn bẩy quan trọng, nhưng cốt lõi là triết lý giáo dục và kiến trúc sư phạm.

Công bằng là bảo đảm cơ hội tiếp cận và chất lượng dịch vụ giáo dục cho mọi người học, bất kể vùng miền, khu vực kinh tế, giới tính, hoàn cảnh gia đình. Các hệ thống giáo dục hàng đầu đều áp dụng phân bổ ngân sách mang tính bù trừ cho nhóm yếu thế, hỗ trợ sớm và theo dõi khoảng cách thành tích bằng dữ liệu theo thời gian thực.

Chất lượng, sau cùng, phải được đo bằng năng lực thực học và thực làm. Các quốc gia thuộc Top 20 giáo dục đều có bằng chứng rõ ràng: Kết quả học tập ổn định qua nhiều vòng đánh giá quốc tế (như PISA, TIMSS), tỷ lệ hoàn thành phổ thông cao, đào tạo sau phổ thông gắn chặt với nhu cầu nhân lực, và giáo dục đại học giữ vai trò trung tâm trong việc tạo nguồn lực đổi mới sáng tạo quốc gia.

Giáo dục Phần Lan cho thấy muốn có chất lượng lâu dài, hãy bắt đầu từ giáo viên: Tuyển đầu vào tinh hoa, đào tạo sư phạm ở bậc sau đại học, trao quyền chuyên môn và bảo đảm phúc lợi để họ dám đổi mới.

Singapore chứng minh hiện đại hóa là thiết kế hệ thống học tập linh hoạt - từ phổ thông đến sau phổ thông - với kỹ năng số, học tập suốt đời, vi tín chỉ (micro-credential) gắn với doanh nghiệp và thị trường việc làm. Hàn Quốc là ví dụ về kết nối đại học với phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghiệp hiện đại, đưa nghiên cứu ra thị trường, tạo động lực nâng hạng đại học.

Một số nước cũng cho những bài học kinh nghiệm quý báu về cơ chế tài chính giáo dục “phân bổ theo nhu cầu”; dịch vụ rộng lớn hỗ trợ học sinh khuyết tật, nhập cư, vùng khó khăn… gắn với tự chủ và giải trình xã hội, được vận hành trên nền tảng quản trị dựa trên dữ liệu và niềm tin (dữ liệu để nhìn thấy vấn đề sớm, niềm tin để trao quyền mạnh cho nhà trường và giáo viên).

“Mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia giáo dục hàng đầu thế giới vào năm 2045 thể hiện kỳ vọng lớn, đòi hỏi quyết tâm cao, triển khai quyết liệt, kiên trì và có lộ trình rõ ràng. Để đạt được, cần sự phối hợp đa ngành, đổi mới sâu rộng và có trọng điểm trên toàn hệ thống, đồng thời tập trung nguồn lực xã hội. Nghị quyết 71 cũng nhấn mạnh yêu cầu liên thông giữa chính sách vĩ mô mang tính chiến lược, đổi mới thể chế, tăng cường đầu tư và quản lý, đi đôi với thực thi tâm huyết, bài bản và đổi mới từng bước ở mọi cấp, mọi đối tượng trong hệ thống giáo dục”. - TS Tôn Quang Cường

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/khat-vong-dua-giao-duc-viet-nam-vao-top-20-the-gioi-post749321.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/khat-vong-dua-giao-duc-viet-nam-vao-top-20-the-gioi-post749321.html
Bài liên quan
Để giáo dục Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu ‘top’ 20 thế giới
Nghị quyết số 71-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Khát vọng đưa giáo dục Việt Nam vào top 20 thế giới