Bức tranh Trinh nữ (được cho là mắc căn bệnh bướu cổ) và đứa trẻ với hai thiên thần (khoảng năm 1476–1478) của họa sĩ Andrea del Verrocchio được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Anh.
Bác sĩ Roger Frugardi, vào thế kỷ 12, đã viết rằng bệnh bướu cổ có thể điều trị được bằng cách uống một loại cồn làm từ lá và rễ cây óc chó, đun sôi trong rượu có thêm một chút hạt tiêu.
Một phương pháp điều trị dược lý thay thế được sử dụng ở nước Ý thời cổ đại là một loại bột thu được từ bọt biển khô và cháy. Bột này rất giàu silica, canxi photphat, natri clorua, clorua lưu huỳnh, iốt, brom, magie cacbonat và canxi cacbonat. Vì nó rất giàu i-ốt nên vào thời kỳ đó việc chữa trị bệnh bướu cổ phần nào đã có hiệu quả.
Ca phẫu thuật bướu cổ đầu tiên trong lịch sử
Vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã, danh tướng Aetius đã đề cập đến việc sử dụng phẫu thuật để điều trị bệnh bướu cổ vào thế kỷ thứ 6, tin rằng đó là sự thoát vị của thanh quản.
Kỷ lục đầu tiên về một ca phẫu thuật tuyến giáp thành công là vào thế kỷ thứ 10, được thực hiện bởi cha đẻ của ngành phẫu thuật Albucasis - bác sĩ phẫu thuật người Ấn Độ cổ đại Sushruta, ông đã cắt bỏ một khối bướu cổ lớn trên người đàn ông khi đang dùng thuốc phiện.
Vào năm 1511, Leonardo da Vinci – họa sĩ người Ý đã vẽ một hình đại diện của tuyến giáp, vì ông đã quen thuộc với cấu trúc giải phẫu của nó. Tuy nhiên, ông không hiểu chức năng của nó, và tin rằng nó giúp duy trì cấu trúc của cổ, và giữ cho khí quản và xương ức được tách biệt.
Năm 1656, một nhà giải phẫu học nổi tiếng người Anh tên là Thomas Wharton đã khám phá ra cấu trúc giải phẫu chính xác của các tuyến nội tiết, trong đó có tuyến giáp, và giải thích rằng các tuyến này có nhiệm vụ tiết các chất vào cơ thể với một số chức năng nhất định.
Trong suốt thế kỷ 18, nhiều người nhận thấy rằng việc cung cấp máu cho tuyến giáp là quá nhiều so với các vùng khác của cơ thể. Bác sĩ phẫu thuật người Đức, Heister, đã ghi nhận các biến thể trong sự xuất hiện của phì đại tuyến giáp và khuyên điều trị bằng thuốc mỡ hoặc phẫu thuật, cảnh báo một số nguy cơ xuất huyết. Vào thế kỷ 19, Eugen Baumann đã phát hiện ra hàm lượng iốt cao có trong tuyến giáp của cừu, cho thấy tầm quan trọng của hợp chất cụ thể này đối với chức năng của tuyến giáp.
Judah với bướu cổ khổng lồ trong bức bích họa bữa tối cuối cùng (thế kỷ 15, Nhà thờ San Martino, Cugnasco, Thụy Sĩ).
Robert Graves và Carl von Basedow được biết đến với những mô tả chính xác về bướu cổ và các bất thường khác của tuyến giáp. Đây là nguồn gốc của Bộ ba Merseburg gồm các bệnh ngoại khoa, bướu cổ và đánh trống ngực, được mô tả bởi von Basedow, vào năm 1840.