Người thợ gốm được vua Bảo Đại phong hàm Cửu phẩm

Trần Hòa 21/09/2025 14:17

Không chỉ được phong hàm Cửu phẩm, nghệ nhân Đào Văn Can còn là tác giả của nhiều công trình lớn, trong đó có chùa Hưng Ký, chùa Triều Đông...

Chùa Triều Đông do nghệ nhân Đào Văn Can thiết kế và xây dựng từ vôi, muối, mật và sứ.
Chùa Triều Đông do nghệ nhân Đào Văn Can thiết kế và xây dựng từ vôi, muối, mật và sứ.

Nhờ tài năng với kỹ thuật làm gốm, khắc họa tiết, làm bản in độc đáo mà nghệ nhân Đào Văn Can được chính tay vua Bảo Đại gắn Kim khánh lên ngực áo, phong hàm Cửu phẩm bá hộ.

Nghệ nhân được vua ban thưởng

nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-8.jpg
Chân dung cố nghệ nhân Đào Văn Can.

Không chỉ được phong hàm Cửu phẩm, nghệ nhân Đào Văn Can còn là tác giả của nhiều công trình lớn, trong đó có chùa Hưng Ký, chùa Triều Đông, và hàng loạt bức tượng như: Kim Đồng, Ẵm em xem sách, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thu nhỏ - được Bác Hồ dùng làm quà tặng Thủ tướng Ấn Độ Nê-ru trong chuyến thăm năm 1964…

Từ cậu bé nghèo theo cha mẹ đi làm thuê ở Bát Tràng, Đào Văn Can đã trở thành một trong những nghệ nhân gốm - nhà điêu khắc tiêu biểu của thế kỷ 20. Cả cuộc đời ông là hành trình bền bỉ lao động, sáng tạo, để lại những công trình nghệ thuật độc đáo mang đậm tinh thần dân tộc.

Ông Nguyễn Đình Sâm - cháu ngoại nghệ nhân Đào Văn Can cho biết, nghệ nhân Đào Văn Can sinh năm 1894 tại làng Triều Đông, xã Thượng Phúc (Hà Nội). Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, ngay từ khi lọt lòng, Đào Văn Can đã theo cha mẹ rời quê về Bát Tràng làm thuê.

Lớn lên bên đất nặn và bàn xoay, cậu bé sớm tìm thấy niềm say mê với nghề gốm. Mới 13 tuổi, cậu bé Can đã được một xưởng gốm nhận vào làm việc, bắt đầu từ công việc giản dị: vẽ hoa văn trên chén, đĩa.

Chỉ hai năm sau, nhờ sự cần mẫn và óc sáng tạo, Đào Văn Can được Phạm Văn Trước - người Bát Tràng, từng làm cai bát cho Trường Bách nghệ Hà Nội (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp) rủ về cùng chế tác các sản phẩm mỹ nghệ cao cấp. Thời gian này, cậu bắt đầu làm quen với những sản phẩm giả cổ, một công việc khó nhọc đòi hỏi kiên trì và tinh tế.

Nhờ năng khiếu thiên bẩm, Đào Văn Can đã thành công, sản phẩm của ông được người làng Bưởi (Hà Nội) ưa chuộng. Tên tuổi của người thợ Đào Văn Can cũng nhanh chóng được người trong giới biết tới. Nhiều đơn hàng đến từ các nhà giàu có đều được Đào Văn Can thực hiện chuẩn chỉ, không chút sai lệch.

Sau một thời gian thể hiện tài năng, lúc khoảng 20 tuổi, Đào Văn Can vào làm việc trong “lò ông Thiếu Hà Đông” - cơ sở gốm Thanh Trì của Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, do con rể Nguyễn Bá Chính quản lý. Ở đây, ông nhanh chóng khẳng định tài năng, óc sáng tạo và sự khéo tay hiếm có.

Nguyễn Bá Chính từng đi Pháp học kỹ thuật in họa tiết để dán lên gốm, song chính Đào Văn Can mới là người áp dụng thành công phương pháp này, giúp giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Năm 1925, sự nghiệp của ông bước sang một trang mới khi vua Bảo Đại tuần du Bắc Kỳ, ghé thăm “lò ông Thiếu Hà Đông”. Ấn tượng trước tài năng, nhà vua trực tiếp gắn Kim khánh lên ngực áo của người thợ Đào Văn Can, và phong hàm Cửu phẩm bá hộ - một vinh dự lớn dành cho người thợ thủ công xuất sắc không qua khoa bảng, bằng cấp.

Cột mốc quan trọng tiếp theo trong đời nghệ nhân Đào Văn Can gắn với ông Hưng Ký (Trần Văn Thành) - chủ Nhà máy gạch Cầu Đuống. Khi có ý định xây dựng chùa và đền trên đất làng Hoàng Mai, ông Hưng Ký đã mời Đào Văn Can về cộng tác.

Hai ngày cuối tuần, ông Hưng Ký đều cho xe riêng đưa đón nghệ nhân Đào Văn Can đến công trình. Không chỉ vậy, ông còn tổ chức nhiều chuyến đi thực địa để Đào Văn Can tham quan, nghiên cứu các ngôi chùa nổi tiếng trước khi bắt tay vào sáng tạo.

Trong hai năm gắn bó với công trình này, Đào Văn Can được tự do sáng tác và đã đưa gốm vào trang trí chùa Hưng Ký theo cách độc đáo nhất. Họa tiết đắp nổi, tô men tây phủ khắp trong ngoài chùa. Đặc biệt, ông đã kể lại những câu chuyện dân gian, Phật giáo bằng tượng.

Các pho tượng tuy chỉ cao 20 - 30 cm nhưng toát lên sức sống nội tâm phong phú, gần gũi, được lấy cảm hứng từ đời thường. Những pho tượng Phật lớn, tranh gốm tứ linh, tứ quý, tượng hộ pháp, lưỡng long chầu nguyệt… đều mang đậm phong cách riêng của Đào Văn Can.

nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-2.jpg
Các bức phù điêu đắp nổi lấy cảm hứng từ các tích dân gian.

Tác giả của hai ngôi chùa gốm độc đáo

Chùa Hưng Ký trước đây thuộc thôn Đoài, xã Hoàng Mai, huyện Thọ Xương - nay là ngõ 228 phố Minh Khai, Hà Nội. Lịch sử tại chùa cho biết, vợ ông Hưng Ký là bà Vũ Thị Sau quê làng Hoàng Mai.

Do làm ăn phát đạt nên vợ chồng ông bà Hưng Ký muốn đem ngôi chùa dột nát ở Phố Cát về dựng trên mảnh đất phía Bắc làng Hoàng Mai vào năm 1931. Cũng vì thế mà ngoài tên chữ là “Vũ Hưng thiền am”, ngôi chùa còn được dân gian gọi là chùa Hưng Ký.

Giá trị chủ yếu của chùa Hưng Ký là kiến trúc và nghệ thuật trang trí. Đặc biệt sử dụng gốm nung có men nhiều màu sắc kỹ thuật cao để thể hiện các chi tiết từ kết cấu đến trang trí từ nóc mái đến tường trụ, từ Tam quan chùa và các công trình khác.

Hiện nay, chùa còn lưu giữ nguyên vẹn số lượng lớn gốm men nhiều màu để gắn, ốp trên các cấu kiện của kiến trúc thể hiện các chi tiết một cách hài hòa với nhiều đề tài phong phú: tứ linh, tứ quý, nhà Phật… Năm 1996, chùa Hưng Ký được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Kinh nghiệm và thành công từ chùa Hưng Ký đã trở thành nguồn cảm hứng để 10 năm sau, vào năm 1942 - 1943, nghệ nhân Đào Văn Can dựng chùa Triều Đông trên mảnh đất quê hương nơi ông sinh ra. Dù quy mô khiêm tốn hơn, nhưng chùa Triều Đông vẫn toát lên vẻ tôn nghiêm và nét mỹ thuật tuyệt diệu.

Nổi bật nhất là gần 500 pho tượng Thập Điện Diêm Vương - tác phẩm sáng tạo khi Đào Văn Can kết hợp làm khuôn, nhưng mỗi pho đều được sửa tay cẩn thận mang thần thái riêng biệt. Hai bên tường của Tam bảo được đắp nổi cung Cửu Long bằng xi măng và sứ. Hai bên lối đi chính là nơi diễn bày 500 pho tượng mô tả thuyết nhân quả cùng các cõi của Phật giáo.

Các pho tượng có kích thước đa dạng, từ 20 - 30cm cho đến 1 - 2m. Mỗi pho tượng mang một nét biểu cảm khác nhau nhưng rất chân thực, sinh động, mô tả cảnh khổ ải dưới địa ngục, kèm đó là các lời răn dạy của Phật để con người có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Mặt ngoài của chùa sử dụng chất liệu sứ miêu tả các tích dân gian, thể hiện sự gắn bó giữa văn hóa dân gian với Phật giáo. Đó là các tích Quan Âm Thị Kính, hình ảnh nhà vua tuần du, Tây Du Ký, cảnh hội làng... Dù công nghệ làm gốm sứ thời đó chưa phát triển nhưng người xưa đã biết cách làm gốm rỗng ruột, vừa gọn nhẹ vừa tốn ít đất sét và dễ tạo hình.

Mái chùa được làm theo kiểu xếp chồng, trên nóc là cặp lưỡng long tranh châu. Hai bên đầu hồi bít đốc, mái thẳng không có đầu đao. Trên các cặp cột đều có đôi câu đối bằng chữ Hán, nổi bật nhất là bức đại tự ở chính giữa đề “Tịnh ngã lạc thường”. Trước mặt là một tiền sảnh nhỏ theo lối cách tân. Tất cả chữ Hán ngoài trời đều được đắp mảnh sành, sứ để tôn lên nét nổi bật cũng như giữ được nét chữ bền lâu với nắng mưa, thời gian.

Đến nay, cả chùa Hưng Ký và chùa Triều Đông đều trở thành biểu tượng về sự sáng tạo, tài năng cũng như sự khéo léo của người thợ xưa - mà nghệ nhân Đào Văn Can chính là một đại diện tiêu biểu cho sự kết hợp giữa điêu khắc, mỹ thuật, với nền văn hoá tín ngưỡng dân gian vào công trình tôn giáo.

nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-7.jpg
Tác phẩm 'Ăn quả nhớ kẻ trồng cây' của nghệ nhân Đào Văn Can giành giải Nhì tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1960.

Người thợ gốm đưa tượng Việt ra thế giới

Năm 1948, khi tượng bà Pháp Vũ ở chùa Đậu bị giặc Pháp đốt phá, nghệ nhân Đào Văn Can được dân làng gọi thân mật là “cụ Cửu Bén” - đã được mời về phục dựng. Ông cẩn trọng giám sát từng chi tiết, không cho phép thợ ỷ lại vào chỉnh sửa của mình. Pho tượng Pháp Vũ cao 0,9m ra đời không sao chép nguyên mẫu tượng Chàm mà được sáng tác kín đáo, gần gũi hơn, thể hiện bản lĩnh sáng tạo riêng.

Một trong những dấu ấn sâu sắc nhất của nghệ nhân Đào Văn Can là tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958. Khi đến thăm triển lãm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng lại trước tượng Kim Đồng của ông, bắt tay nghệ nhân Đào Văn Can và khen: “Tinh thần lắm!”. Ba chữ giản dị ấy trở thành động lực to lớn để ông tiếp tục sáng tạo.

Cũng tại triển lãm, tác phẩm “Ẵm em xem sách” của Đào Văn Can đoạt giải Nhì và được chọn dự Triển lãm Mỹ thuật 12 nước Xã hội chủ nghĩa tại Romania. Hiện, tác phẩm này vẫn được trưng bày bảo quản tại Bảo tàng Bucharest (Romania).

Sau đó, ông còn sáng tác nhiều tượng gốm nhỏ đậm chất dân tộc như: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Hai Bà Trưng cưỡi voi ra trận. Đặc biệt, bức tượng “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” như lời tri ân gửi đến Đảng, Bác Hồ và cách mạng - đã đoạt giải Nhì tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1960. Năm 1964, nghệ nhân Đào Văn Can tiếp tục thành công với việc thu nhỏ tượng Phật bà nghìn tay nghìn mắt từ 3,2m xuống 0,8m, tặng Thủ tướng Ấn Độ Nê-ru trong chuyến thăm của Bác Hồ.

nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-6.jpg
Tượng Kim Đồng do nghệ nhân Đào Văn Can sáng tác và dự triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958, được Bác Hồ khen 'Tinh thần lắm!'.

Một điều hiếm thấy trong lịch sử giáo dục Việt Nam là nghệ nhân Đào Văn Can dù chưa từng đi học trường lớp chính quy lại trở thành giảng viên Khoa gốm Trường Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam.

Ngoài vài năm học chữ Hán với cụ đồ nho, Đào Văn Can hoàn toàn tự học Quốc ngữ, Pháp ngữ và mỹ thuật. Nhờ tài năng và uy tín, ông được mời giảng dạy, đào tạo nên nhiều thế hệ học trò thành danh như Cao Trọng Thiềm, Trương Quốc Bình, Trần Khánh Chương…

Năm 1970, ông được Bộ Văn hóa tặng bằng khen. Năm 1974, danh hiệu “Nghệ nhân Bàn tay vàng” cũng được trao cho ông. Ngày 29/1/1976, nghệ nhân Đào Văn Can qua đời, khép lại một cuộc đời gắn bó trọn vẹn với nghệ thuật gốm và điêu khắc. Sau này, ông còn được truy tặng Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam (2001).

Các tác phẩm của ông hiện vẫn được lưu giữ, trưng bày tại nhiều bảo tàng trong và ngoài nước. Nhà thờ dòng họ Đào ở quê hương Triều Đông, nơi lưu giữ kỷ vật, hình ảnh của ông, đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa (2004), trở thành địa chỉ tham quan, học tập của giới mỹ thuật và công chúng.

Từ một cậu bé nghèo không được cắp sách đến trường, Đào Văn Can đã trở thành nghệ nhân, nhà điêu khắc tài danh, được Bác Hồ khen ngợi, được quốc tế biết đến, để lại những công trình bền vững cùng năm tháng. Sự nghiệp của ông là minh chứng sinh động cho sức sáng tạo của người Việt, cho tinh thần vượt khó và tình yêu nghệ thuật cháy bỏng.

Ngày nay, mỗi khi chiêm ngưỡng các tác phẩm tượng: “Kim Đồng”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay bước vào chùa Hưng Ký, chùa Triều Đông, người nay vẫn cảm nhận được hơi thở của một nghệ sĩ đã sống và sáng tạo hết mình, đưa gốm Việt thăng hoa, đi cùng lịch sử dân tộc. Ban thờ nghệ nhân Đào Văn Can hiện diện trong khuôn viên chùa Triều Đông như một cách tưởng nhớ và tri ân. Tại nhà thờ Đào Văn Can, bên cạnh các bức ảnh quý chụp nghệ nhân tại các sự kiện cùng các văn nghệ sĩ xưa, còn một số tài liệu, kỷ vật được bảo lưu cẩn thận.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-post748890.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/nguoi-tho-gom-duoc-vua-phong-ham-cuu-pham-post748890.html
Bài liên quan
Trẻ thích thú đến Bát Tràng làm gốm
Tham gia trải nghiệm làm gốm tại làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) đang trở thành hoạt động văn hóa được nhiều người yêu thích, nhất là giới trẻ.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Người thợ gốm được vua Bảo Đại phong hàm Cửu phẩm